Buồn rầu buồn rỉ buồn rê
Bán bò tậu ruộng mua dê về cày
Đồn rằng dê đực khoẻ thay
Bắt ách lên cày nó lại phá ngang
Tình thình tích thịch tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thì lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang
Một nhà có bốn chị em
Có tôi là út, tôi thèm đi chơi.
Cả gan may túi đựng trời
Đem nong sảy đá, giết voi xem giò
Ngồi buồn đem thước ra đo
Đo từ núi Sở, núi So, chùa Thầy.
Lên trời đo gió đo mây
Xuống sông đo nước, lại đây đo người.
Đo từ mười tám, đôi mươi
Đo lên chẳng được, đo người mười lăm.
Tuổi em vừa đúng trăng rằm
Tuổi anh mười sáu kết trăm năm vừa.
Cái cốc mày lặn ao chà
Bay lên rũ cánh nóc nhà chị nương
Yếm thắm mà nhuộm mầu hường
Cái răng hạt đỗ, làm tương anh đồ (*)
Yếm thắm mà vã nước hồ,
Vã đi vã lại anh đồ càng mê!
Trai tơ ơi hỡi trai tơ
Đi đâu mà vội mà vơ nạ dòng
Nạ dòng lấy được trai tơ
Đêm nằm hí hửng như Ngô được vàng
Trai tơ vớ phải nạ dòng
Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu
Chăn đơn nửa đắp gối chiếc nửa hòng
Cạn sông lở núi ta đừng quên nhau
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn xôi đỏ dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc dấu hay bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ quên cha
Làm cho quên cửa quên nhà
Làm cho quên cá dưới ao
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời
Đất Bụt mà ném chim trời
Ông Tơ bà Nguyệt xe dây, xe nhợ nửa vời ra đâu!
Cho nên cá chẳng bén câu
Lược chẳng bén đầu, chỉ chẳng bén kim
Thương nhau nên phải đi tìm
Nhớ nhau một lúc như chim lạc đàn.
Đầu năm ra mắt mồng ba
Cúng ông Hành Khiển cùng là Hành Binh
Bói giò phải bói cho tinh
Xem tường màu sắc chân hình rủi may
Đôi giò cần để thẳng ngay
Nhuận hồng vàng ánh năm nay chắc giàu
No rồi chụm móng khít khao
Đỡ cái chặt chẽ cũng giàu cũng sang
Đỏ mà gân máu nổi loang
Là điềm hao của tan hoang cửa nhà
Trắng xanh bền bệt thây ma
Ấy điềm tang chế ông bà cháu con
Da gà tươi mượt vàng son
Đi thi chắc đậu đi buôn chắc lời
Khe chân gà hở tơi bời
Tiền vô nhiều cũng phủi rồi tay không
Ba ngón đội lên một chồng
Tốt thì có tốt, phải phòng người trên
Nhờ người giúp đỡ mới nên
Tự mình tự chủ không bền được đâu
Cũng ba ngón chân chụm đầu
Một hàng ngang mặt, thúng đâu đựng tiền
Ngón cái mà cong nghiêng nghiêng
Đâm vô khe hở, lụy phiền đến nơi
Quan phi khẩu thiệt tơi bời
Tai bay vạ gió kêu trời sao đang
Bốn chân cong quẹo loạn hàng
Cả năm bươn chải biết đàng nào yên
No rồi như nở cười duyên
Da hường tươm mỡ của tiền đầy kho
Da chân xam xám màu tro
Gân xương khô héo có lo cũng nghèo
Đôi giò cái trễ cái treo
Bên ngay bên quẹo nằm queo một mình
Da vàng mỡ đọng lung linh
Làm chơi được thiệt, mặc tình vui chơi
Bốn ngón đều ngay lên trời
Nồi gọ xẹp lép thì thôi còn gì !
Gặp năm tuổi xấu thêm nguy
Ốm đau tang chế, quan phi tụng đình
Ngón chân rời rạc thân hình
Thiếu người giúp đỡ, thiếu tình hữu giao
Gặp cơn sóng gió ba đào
Một tay lèo lái, ai nào giúp ta!
Chân gà cấm hở, quẹo ra
Da gà tươi nhuận mới là bình an
Cúng gà ra mắt nghiêm trang
Làm gà kỹ lưỡng, luộc càng thêm tinh
Có thành chắc có thần linh
Cầu ông Hành Khiển Hành Binh hộ trì
Cho mình gặp hội khả vi
Mỗi chu niên trọn, chu kỳ bình an
Mùng ba Tết tới bước sang
Lại cúng ra mắt huy hoàng như xưa.
(Phú Bói Giò Gà)
Anh ham xóc đĩa cò quay
Máu mê cờ bạc, lại hay rượu chè.
Eo sèo công nợ tứ bề,
Kẻ lôi người kéo ê chề lắm thay!
Nợ nần, em trả, chàng vay,
Kiếp em là kiếp kéo cày đứt hơi!
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.
Bảy thương nết ở khôn ngoan
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
Chín thương em ngủ một mình
Mười thương con mắt hữu (đưa) tình cho (với) ai.
(Hoặc: Một thưong mái tóc đuôi gà)
Lạ lùng anh mới tới đây (2)
Lạ thung lạ thổ, anh nay lạ nhà.
Ba cô anh lạ cả ba
Bốn cô lạ bốn biết là quen ai?
Quen cô mụn áo vá vai
Bác mẹ khéo vá hay tài vá nên?
Nhác nom mụn vá có duyên
Hỏi rằng áo ấy ở miền đâu tá
Tư thế bút mực làm giầu
Trà Lâm mổ lợn, uốn câu làng Dàn
Đúc chì đã có Văn Quan
Kẻ Tướng đi hát kiếm quan tiền dài
Ép dầu đã có Thanh Hoài
Dâu, Tự buôn muối bán ngoài chợ Dâu
Công Hà trồng bí, trồng bầu
Đông Cốc dậm rủi đâu đâu cũng mò.
Kể từ quân Pháp sang đây
Hại người cướp của bấy nay đã nhiều
Dân tình đồ thán đủ điều
Căm gan tức chí phải liều ra tay
Anh hùng đã tỏ tài trai
Nữ nhi cũng chẳng kém loài bồng tang
Nhớ xưa phất ngọn cờ vàng
Bà Trưng, Bà Triệu chiến trường xông pha
Cai Vàng lại có bà Ba
Tây Sơn bà Phó cũng là anh thư
Xúm tay xoay lại cơ đồ
Dân yên quốc thịnh phất cờ Việt Nam
Từ ngày quân Pháp kéo sang
Chợ Tràng cô Tám cũng gan anh hùng
Dưới trướng cụ Phan Đình Phùng
Bắt quân lính tập vào tròng trăm tên
Lại như vợ lẽ Đội Quyên
Nam trang cải dạng tìm lên núi rừng
Đúc súng đúc đạn, giúp chồng
Đánh cho quân Pháp hãi hùng đảo điên
Bà Ba Đề Thám truân chuyên
Non sông đã trải mấy phen thác ghềnh
Hồng quần nhẹ bước rừng xanh
Trận tiền giáp chiến đao binh vẫy vùng
Hồng nhan nhẹ bước thong dong
Chính bà cũng dự quân trung luận bàn
Bà Lang Seo mở ngôi hàng
Giả đò hương khói đèn nhang bấy chầy
Hà Nội, Nam Định, Sơn Tây
Nghĩa Hưng đảng ấy nay ngày một to
Chuyện năm Canh Ngọ mới vừa
Việt Nam dân đảng bấy giờ lập ra
Chương trình định liệu gần xa
Trước là dân tộc sau ra đại đồng
Cô Giang cũng bực anh hùng
Dốc tâm thề Đảng một lòng trung trinh
Cùng ai thề chữ tử sinh
Chưa chăn gối cũng vẹn tình sắt son
Chia nhau việc Đảng lo tròn
Tài chính cổ động lại còn giao thông
Thất cơ sự đến khi cùng
Tím gan Yên Bái, đau lòng xiết bao
Thế gian mặc chuyện ra vào
Lòng chung xin nguyện trời cao soi cùng
Chàng theo nước, thiếp theo chồng
Tuồng khi dơ dáng sống cùng hôi tanh
Khen chê phó mặc sử xanh
Treo gương đất nghĩa trời Kinh đời đời.
(Vè cô Giang)