Ai mua chiếu hông
Chiếu bông chiếu trắng
Chiếu vắn chiếu dài
Chiếu dệt lầu đài
Cổ đồ bát bửu
Chiếu tây hột lựu
Da lợn bông bao
Chiếu rộng màu cau
Con cờ, mặt võng
Dệt bông chong chóng
Ngũ sắc, bá huê
Đẹp hết chỗ chê
Ngôi sao, tùng lộc
Chiếu trải giường hộc
Chiếu trải giường Tàu
Chiếu trải giường trước
Chiếu trải giường sau
Chiếu nào cũng có đủ
Trong gia chủ ai muốn mua thì mua
(Vè bán chiếu)
Uống một ly nhâm nhi tình bạn
Uống hai ly giải cạn cơn sầu
Uống ba ly mũi chảy đầy râu
Uống bốn ly ngồi đâu nói đó
Uống năm ly cho chó ăn chè
Uống sáu ly ai nói nấy nghe
Uống bảy ly làm xe lội nước
Uống tám ly chân bước chân quỳ
Uống chín ly còn gì mà kể
Uống mười ly khiêng để xuống xuồng
Một xị giải phá cơn sầu
Hai xị mũi chảy đầy râu
Ba xị nằm đâu ngủ đó
Bốn xị cho chó ăn chè
Năm xị làm xe lội nước
Sáu xị vợ rước về nhà
Bảy xị ông bà chửi nát
Tám xị ra đống rác nằm
Chín xị lên băng ca
Mười xị ra nghĩa địa
Nhất xị mở mang trí hoá,
Nhị xị giải phá thành sầu,
Tam xị mũi chảy đầy râu,
Tứ xị ngồi đâu “đứa” đó,
Ngũ xị cho chó ăn chè,
Lục xị vợ đè cạo gió,
Thất xị mua hòm để đó,
Bát xị … cho nó chết luôn!
(Vè Bợm Nhậu)
Nguồn: Mai Huyền Chi
Nghe vẻ nghe ve (6)
Nghe vè thịt chó
Thằng nào xấu mặt
Bắt nước cạo lông
Thằng nào ở không
Nạo dừa, rang đậu
Thằng nào muốn nhậu
Thằng nào muốn vô
Thì ngồi chính giữa
Thằng nào ói mửa
Thì đạp xuống sàn
Đánh lộn la làng
Vì sàng thịt chó
(Vè thịt chó)
Vai mang xấp vải trong mo
Đi chưa tới chợ đã lo ăn hàng
Bánh in cùng những bánh bàng
Bánh bò bông, bánh ít trần, ngon thay.
Mít nghệ múi bằng cổ tay
Bánh đúc chấm mật, bánh gai, bánh bèo
Muốn ăn đừng có lo nghèo
Tiền tui trong túi đem theo đủ dùng,
Ăn một bụng ba mươi đồng
Mua mấy thứ để cho chồng tui đây
Vừa mới tới vuông đất cày
Ngồi dưới gốc cầy lật nón ra ăn
Làm vầy dạ cũng băn khoăn
Vì chưng lỗ miệng muốn ăn không chừng
(Vè Ăn Hàng)
Nem chợ Sãi,
Vải La Vang
Khoai Quán Ngang,
Dầu tràm Đại Nại
Mai phường Trúc
Nước độc Kim Giao
Gạo Phước Điền
Chiêng Sắc Tứ
Khoai từ Trà Bát
Quạt chợ Sòng
Cá bống Bích La
Gà Trà Lộc
Môn độn An Đôn
Tôm đồng Mai Lĩnh
Bánh ít Đạo Đầu
Trầu nguồn Khe Gió
Cỗ Trung Đơn
Thơm Bồ Bản
Nghệ vàng An Lộng
Xôi thống Hải Thành
Gạch Trí Bưu
Lựu Triệu Phước
(Vè Thổ Sản)
Con gái làng Sấu
Hay cấu hay cào
Cấu ra bờ rào
Cấu vào chuồng lợn
Nào ai có tợn
Lấy gái làng này?
Nó vác cả cày
Ra đồng nó cấu
Nó vác cả đấu
Ra đồng nó đong
Nó vác cả nong
Ra đồng nó quạt
Nó vác cả tháp
Ra đồng nó xây
Nó gói cả mây
Bỏ trong giỏ nó
Nó thắt khăn đỏ
Nó múa gươm thần …
(Vè con gái làng Sấu)
Lẳng lặng mà nghe
Cài vè học vụ
Đồng bào mù chữ
Ở khắp mọi nơi
Chiếm chín phần mười
Toàn dân đất Việt
Muôn bề chịu thiệt
Chịu đui, chịu điếc
Đời sống vùi dập
Trong vòng nô lệ
Hơi đâu mà kể
Những sự đã qua
Chính phủ Cộng hòa
Ngày nay khác hẳn
Đêm ngày lo lắng
Đến việc học hành
Mấy triệu dân lành
Còn đương tăm tối
Bị đời hất hủi
Khổ nhục đáng thương
Ngơ ngác trên đường
Như mù không thấy
Những điều như vậy
Không thể bỏ qua …
(Vè bình dân học vụ)
Vè vẻ ve ve
Nghe vè kẹo kéo
Mần thiệt là khéo
Ai thấy cũng thèm
Ai thấy cũng khen
Rằng kẹo Sa Đéc
Người nào chưa biết
Quảng cáo là mua
Cô bác ông bà
Xin mời ăn thử
Ngon hay là dở
Cứ việc chê khen
Có bán có thêm
Đồng xu một miếng
Ai trả hai tiếng
Sáu miếng năm xu
Ai trả lu bù
Thì tui không bán
Thợ khéo thượng hạng
Không phải lôi thôi
Đậu không thúi hôi
Bánh phồng thiệt xốp
Mật đường đem lược
Không cặn không ruồi
Ai ăn kẹo rồi
Thì ghiền kẹo kéo
Ai thường lui tới
Cũng phải mua về
Kẹo ngon rẻ rề
Nổi danh khắp chốn
Không cần hao tốn
Mà có kẹo ngon
Mua cho bà con
Cùng là giòng họ
Bán không mắc cỡ
Tui bán sạch trơn
Tui xin cảm ơn
Ai mua kẹo kéo
Sa Đéc xứ khéo
Mần kẹo thiệt tài
Ăn hủy ăn hoài
Ai mua kẹo kéo…
(Vè kẹo kéo Sa Đéc)
Đầu hôm ngủ tới canh tư,
Còn nằm mà ngủ, muỗi thì nó cắn dư cả vùa
Canh năm thì dộng trống chùa,
Còn nằm mà ngủ, chúng lùa một bên
Ngủ thì quên tuổi, quên tên,
Ngủ cho mặt trời mọc đã lên ba sào
Sáng ra đái dựa hàng rào,
Còn đương ngây ngủ té nhào trong gai
Quét nhà long mốt long hai,
Con mắt dáo dác thấy trai ngó chừng
Bày ra cắt áo, cắt quần,
Cắt không kích tấc, nhằm chừng cắt ngang
Vải thời một tấc một quan,
Cắt thời khoét lỗ khoét hang đâu còn
Bày ra bánh cục bánh hòn,
Nắn bằng chiếc đũa, hấp còn bột không
Sáng ra đi cấy vần công,
Cấy thưa cấy nổi đi không về rồi
Bày ra cháo vịt, cháo bồi,
Cháo không có xác ăn rồi nhả ra
Từ nay cho tới hăm ba,
Cậy mai tới nói người ta không thèm
Chị em thấy vậy nói gièm,
Nấu canh chua tợ như hèm khó ăn
Làm bộ líu lăng,
Bánh bò, bánh thuẫn
Làm không mí mửng,
Lớp trọc lớp đen
Sang qua bánh men,
Thiệt là chai ngắt
Làm bộ ngoe ngoắc
Đi hấp bánh gừng
Quạt lửa phừng phừng
Mặt vàng như nghệ
Uổng công bốn bể
Học lúc văn minh
Nghĩ lại phận mình
Thiệt là thưa thớt
(Vè con gái hư)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè nói ngược
Nắng hạn đầy nước
Mưa dầm khô rang
Đám cưới đình làng
Kì yên ngoài chợ
Nhà giầu khất nợ
Nhà nghèo cho vay
Đàn bà đi cày
Đàn ông đi cấy
Ghe nổi thì đẩy
Ghe cạn thì chèo
Nuôi chuột bắt mèo
Nuôi heo lấy trứng
Xu xoa thì cứng
Đá núi thì mềm
Trời nắng về đêm
Ban ngày sao mọc
(Vè nói ngược )
Anh mong tát biển cấy kê
Tát sông Bồ Ðề nhổ mạ cấy chơi
Bẻ que đo Trời
Đan lồng nhốt kiến
Thầy mẹ thương đến
Bắt voi coi giò
Thầy mẹ gả cho
Rước voi làm lễ
Anh đi làm rể
Che hai lọng vàng
Nhà anh thì ở giữa làng
Lấy vàng làm cột
Giạt bạc làm tranh
Cưa gỗ lim làm thành
Chẻ ngà voi làm lạt
Anh đặt chuyện hát
Nói láp em nghe,
Nhà anh cột nứa, kèo tre..
Trời làm tháng sáu giá chân
Tháng một nằm trần nóng đổ mồ hôi
Con chuột kéo cày lồi lồi
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong
Vườn rộng thì thả rau rong
Ao sâu giữa đồng vãi cải làm dưa
Con bò đi tắm ban trưa
Một đàn con vịt cày bừa ruông nương
Con voi nằm ở gầm giường
Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn
Chuồn chuồn thấy cám liền ăn
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua
Trời mưa cho mối bắt gà
Thòng đong con cấn đuổi cò lao xao
Lươn nằm cho trúm bò vào (*)
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Thóc giống cắn chuột trong bồ
Lá lúa lá mạ đuổi vồ chân trâu
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha qua biết đâu mà lần
Cầy cáo thì đuổi chó săn
Một đàn con chuột đuổi ăn con mèo
Tượng nghe:
Nước có nguồn, cây có gốc
Huống chi người có da, có tóc
Mà sao không biết chúa, biết cha?
Huống chi người có nóc có gia
Mà sao không biết trung biết hiếu
Hai vai nặng trĩu
Gánh chi bằng gánh cang thường
Một dạ trung lương
Gồng chi bằng gồng xã tắc
Bớ những người tai mắt
Thử xem loại thú cầm:
Trâu ngựa dòng điếc câm
Còn biết đền ơn cho nhà chủ
Muông gà loài gáy sủa
Còn biết đáp nghĩa lại người nuôi
Huống chi ta:
Chưn đạp đất, đầu đội trời
Ở chi thói sâu dân mọt nước!
Sao chẳng nghĩ sau nghĩ trước
Lại làm thằng nghịch thằng gian
Sao bằng trai trí chúa an bang
Sao bằng trai thừa gia khai quốc
Lẽ phải thời:
Trải gan trung, bồi nghĩa mật
Đền ơn thuở trong bụng mẹ mười tháng sanh ra
Lẽ phải thời:
Vợ thúc chồng, con giục cha
Đền thuở ở đất vua, nắm rau, mớ ốc
Thậm tiếc bấy:
Những tay tham lợi muốn yên mình
Đành để tiếng vong tiên bội tổ
Tai đâu chẳng nghe, mắt đâu chẳng rõ?
Tổ tiên đâu, mồ mả nước nào?
Lòng sao không xót, dạ sao không bào?
Bờ cõi loạn, nhơn dân đổ thán
Mình nước Hớn, mẹ cha nước Hớn
Hỏi chớ nào thảo nào ngay?
Thù Tây rồi lại ở với Tây
Hỏi chớ nào tôi nào chúa?
Bởi mình mảng tham lam tiền của
Để cho Tây bắt vợ giết chồng
Bởi mình tham, ham hố bạc đồng
Để cho Tây lột da khỏ óc
Thân sao không biết nhục?
Vinh vang chi cũng lấy tiếng Tây
Sung sướng khó trọn đời
Cảm thương kẻ nó hành nó hiếp
Xóc tóc cúp đầu
Cám thương người nó móc nó treo
Hành thân hoại thể
Nghĩ thương không xiết kể
Giận nói chẳng hay cùng
Giận những phường bất hiếu bất trung
Thương những kẻ oan con oan vợ
Thương gã chệch đêm nằm không ngủ
Nóng gan son ra lập nghĩa đường
Giận thằng Tây chẳng giữ phong cương
Sống u mê theo tuồng tả đạo
Trách những kẻ lòng muông dạ cáo
Sống hư hèn sửa trấp nưng khăn
Thương những tay bảng quế trung thần
Thủa gan dạ thẻ ngời bia tạc
Làm người sao khỏi thác
Thác trung thần, thác cũng thơm danh
Làm người ai chẳng tham sanh
Lòng địch khái xin cho rỡ tiết
Đêm năm canh thương người chánh liệt
Ngày sáu khắc nhớ kẻ trung trinh
Chốn biên thuỳ lãnh ấn tổng binh
Cờ đề chữ “Bình Tây đại tướng”
Trước trí quân ư Nghiêu Thuấn thượng
Sau vi xã tắc lương thần
Phải cạn lời rao khắp muôn dân
Sửa tấc dạ dìu về một mối
Ai chẳng ra thú trước
Ắt phải luỵ về sau
Bớ trẻ già bé lớn đâu đâu
Kíp bội ám đầu minh tua gắng
Chiếu phụng dầu ta lãnh đặng
Nương lòng trời cứu lũ sanh linh
Phải cạn lời tỏ hết chơn tình
Cho con trẻ dân đen đều biết
Kẻ nào còn vi ngược trợ Kiệt
Mũi thiên oai nhất quyết không dung.
(Vè đánh Tây )
Quê Hương, Địa Danh, So Sánh, Tương Đồng, Chợ Búa,
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè cái chợ
Sáng mơi xách rổ
Đi giáp một vòng
Hàng hóa mênh mông
Kêu bằng Chợ Lớn
Thiên hạ phát ớn
Là chợ Bình Đông
Ấm bụng no lòng
Kêu bằng Chợ Gạo
Thiệt là huyên náo
Là chợ Bến Thành5
Xúm nhau giựt giành
Là chợ Bến Tranh
Ăn ở hiền lành
Đi chợ Thủ Đức
Tối mò như mực
Là chợ Gò Đen
Cẳng bước không quen
Là chợ Gò Vấp
Khỏi lo đèn tắt
Đi chợ Gò Dầu
Sợ má đợi lâu
Đi chợ Bà Quẹo
Không trì cũng kéo
Là chợ Bến Tre
Chợ gì vắng hoe
Kêu bằng chợ Đũi
Ăn mặn như muối
Là chợ Cầu Kho
Nấu nướng khỏi lo
Là chợ Xóm Củi
Coi chừng lửa khói
Là chợ Lái Thiêu
Vắng mẹ nó kêu
Là chợ Bến Nghé
Ai mà đau khổ
Đi chợ sầu riêng18
Gục xuống gục lên
Kêu bằng chợ ế
Đạp nhằm quỵ té
Là chợ Cần Chông
Rượt chạy lòng vòng
Là chợ chồm hổm
Làm ăn yên ổn
Là chợ Biên Hòa
Hay hát dân ca
Là chợ Phước Lý
Toàn là thi sĩ
Là chợ Cần Thơ
Nó cắn ơ hờ
Là chợ Rạch Kiến
Vừa nói vừa nghiến
Là chợ Cái Răng
Ăn uống lăng xăng
Đâu bằng chợ Quán
Người ưa bàn tán
Ra chợ Bùng Binh
Không dính trong mình
Là chợ Cần Giuộc
Muốn gặp Trời Phật
Đi chợ Long Hoa
Phơi lúa mau khô
Thì đi chợ Đệm
Rờ êm như nệm
Là chợ Sài Gòn
Đàn bà chết chồng
Xuống chợ Rạch Giá
Không ăn thịt cá
Ra chợ Hà Tiên
Cho người tới biên
Là chợ Bến Thuế
Tướng sĩ xe pháo
Là chợ Bàn Cờ
Vợ bỏ bơ vơ
Chợ Cầu Ông Lãnh
Người nào cũng bảnh
Là chợ Cái Cơm
Khỏi lo bần cùng
Đi chợ Phú Quới
Chưa đi đã tới
Là chợ Cà Mau
Chẳng được ngọt ngào
Là chợ Đà Lạt
Ngứa gãi sột soạt
Là chợ Hóc Môn
Nghe kêu hết hồn
Là chợ Trà Cú
Xe chạy ngắc ngứ
Là chợ Gò Công
Đi giáp một vòng
Cũng chưa hết chợ
Thiệt là đáng sợ
Là cái chợ trời
Ai biết xin mời
Tiếp theo vè chợ.
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè bài tới
Cơm chưa lập xới
Trầu chửa kịp têm
Tao đánh ba đêm
Thua ba tiền rưỡi
Về nhà chống chửi:
Thằng Móc, thằng Quăn,
Đánh sao không ăn
Mà thua lắm bấy?
Tui lấy tiền cấy
Cho đủ mươi ngày
Bảy Thưa, Bảy Dày
Cùng là Ngạt kéo
Chị em khéo léo,
Dễ mượn dễ vay
Thân tui ngày rày
Dầm mưa dãi nắng
Chị em có mắng
Tôi cũng ngồi đây
Nó là tuồng dày
Nó cũng a dua
Ăn thì tôi vùa
Thua thì tôi chịu
(Vè bài tới)
Vè Nói Ngược
Con chó hay trèo
Con mèo hay cắn
Xôi thịt thì đắng
Bồ hòn thì hôi
Thơm như tổ cú
Đàn ông to vú
Đàn bà rậm râu
Hay gáy con trâu
Hay bừ gà trống
Của ta thì trọng
Của chúa thì hèn
Giấy bản thì đen
Mực tàu thì trắng
Mây mù thì nắng
Mây trắng thì mưa
….
Nhất gạo nhì rau
Tam dầu tứ muối
Thịt thì đuôi đuối
Cá biển mất mùa
Đậu phụ chua chua
Nước chấm nhạt thếch
Mì chính có đếch
Vải sợi chưa về
Săm lốp thiếu ghê
Cái gì cũng thiếu
(Vè thời Bao Cấp)
Vè đánh thẻ
Trồng luống cải
Trải con chắt
Một dẻo dang
Hai sang đò
Ba cò kếu
Bốn nghêu ngao
Năm dao thớt
Sáu thịt muối
Bảy chuối xanh
Tám hành tỏi
Chín gói ghém
Mười chém chân …
Đặt xuống đất
Cất lên tay
Xoay ống nhổ
Đổ tay chuyền
Chuyền chuyền một
Một một đôi
Chuyền chuyề hai
Hai hai đôi…
Chuyền chuyền mười
Mười mười đôi
Đặt xuống chân
Nâng lấy một
Chộp lấy đoi…^
Đặt xuống đây
Xoay lấy một
Chộp lấy mười
Một này một nua…+~
Hai sang ba
Ba này ba nữa
Ba nữa, một sang tư
Tư củ từ
Tư củ khoai
Hai sang năm
Năm lìa năm
Năm sang sáu
Sáu lìa tư
Tư sang bảy
Bảy lìa ba
Ba sang tám
Tám lìa hai
Hai sang chín
Chín lìa một
Một sang mười
Mười vơ cả
Cả xuống đất
Cất lên tay
Xoay ống nhổ
Đổi tay chuyền
(vè đánh thẻ )
Ve vẻ vè ve
Cái vè nói ngược
Non cao đầy nước
Đáy biển đầy cây
Dưới đất lắm mây
Trên trời lắm cỏ
Người thì có mỏ
Chim thì có mồm
Thẳng như lưng tôm
Cong như cán cuốc
Thơm nhất là ruốc
Hôi nhất là hương
Đặc như ống bương
Rỗng như ruột gỗ
Chó thì hay mổ
Gà hay liếm la
Xù xì quả cà
Trơn như quả mít
Meo meo là vịt
Quạc quạc là mèo
Trâu thì hay trèo
Sóc thì lội nước
Rắn thì hay bước
Voi thì hay bò
Ngắn như cổ cò
Dài như cổ vịt
Đỏ như quả quýt
Vàng như quả hồng
Cao tồng ngồng như chim tu hú
Lùn lụ khụ như chim bồ nông
Hay chạy lon ton là gà mới nở
Cái mặt hay đỏ là con gà mào
Hay bơi dưới ao mẹ con nhà vịt
Hay la hay hét là con bồ chao
Hay bay hay nhào mẹ con bói cá
Tiếng con chim ri gọi dì gọi cậu
Tiếng con sáo sậu gọi cậu gọi cô
Tiếng con cồ cồ gọi cô gọi chú
Tiếng con tu hú gọi chú gọi dì
Mau mau tỉnh dậy mà đi ra đồng
(Vè Nói Ngược)
Nghe vẻ nghe ve (3)
Nghe vè nói ngược
Tàu chạy trên bờ
Ngựa đua dưới nước
Gà cồ hay ủi
Heo nái hay bươi
Sáng trăng ba mươi
Đêm rằm trời tối
Nấu cơm bằng cối
Giã gạo bằng nồi
Gói bánh bằng vôi
Ăn trầu bằng bột
Xới đất bằng liềm
Bửa củi bằng kim
May áo bằng búa
Dao bầu gánh lúa
Đòn xóc bửa cau
Cọp tắm dưới bàu
Cá bơi trên lúa
(Vè nói ngược)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè về rau
Xấc láo hỗn hào
Là rau ngành ngạnh
Trong lòng không tránh
Vốn thiệt tâm lang
Đất rộng bò ngang
Là rau muống biển
Quan đòi thầy kiện
Bình bát nấu canh
Ăn hơi tanh tanh
Là rau dấp cá
Không ba có má
Rau má có bờ
Thò tay so đo
Nó là rau nhớt
Ăn cay như ớt
Vốt thiệt rau răm
Sống tới ngàn năm
Là rau vạn thọ
Tay hay xớ rớ
Vốn thiệt rau co
Làng bắt chẳng cho
Chính là rau húng
Lên chùa mà cúng
Lại có hành hương
Giục giã buông cương
Là rau mã đề
(Vè về rau)
Nghe ve nghe vẻ nghe vè trái cây
Dây ở trên mây là trái đậu rồng,
Có vợ có chồng là trái đu đủ,
Chặt ra nhiều mủ là trái mít ướt.
Hình tựa gà xước vốn thiệt trái thơm.
Cái đầu chôm bôm là trái bắp nấu,
Rủ nhau làm xấu trái cà dái dê ,
Ngứa mà gãi mê là trái mắt mèo,
Khoanh tay lo nghèo là trái bần ổi.
Sông sâu chàng lội là trái mảng cầu,
Chẳng thấy nàng dâu thật là trái cách.
Trong ruột ọc ạch vốn thiệt dừa xiêm,
Hễ chín thâm kim; chuối già, chuối sứ.
Tam tung tự tứ là trái dưa gan,
Vốn ở Miền Man là trái bí rợ,
Mẹ sai đi chợ vốn thiệt trái dâu
Ở những ao sâu là trái bông súng
Chằng nên lễ cúng vốn thiệt trái sung.
Nhỏ mà cay lung thiệt là ớt hiểm,
Đánh túc cầu liềm vốn thiệt trái me,
Nắng mà chẳng che là trái rau mát,
Rủ nhau chà xát vốn thiệt trái chanh,
Nhỏ mà làm anh, trái đào lộn hột,
Ăn mà chẳng lột vốn thiệt trái tiêu,
Thổi nghe ú liêu là trái cóc kèn,
Rủ nhau đi rèn là trái đậu rựa,
Đua nhau chọn lựa là trái dành dành,
Cam ngọt, cam sành, chuối già chuối sứ.
Nhưng chi lịch sự bằng táo với hồng
Những gái chưa chồng muốn ăn mua lấy
Vè bán quán
Tui xin mời cô bác
Cùng quý vị gần xa
Đi chơi hay về nhà
Lâu lâu gặp bằng hữu
Tui mời cho đầy đủ
Không sót một người nào
Chủ quán xin mời vào
Dùng cơm hay hủ tiếu
Thịt quay cùng xá xíu
Hễ có tiền là ăn
Thịt chó xào rau cần
Thịt bò thì nhúng giấm
Gà tơ thì nấu nấm
Chim sẻ thì rô ti
Cua lột chiên bột mì
Cá lý ngư làm gỏi
Nem nướng rồi bánh hỏi
Trứng vịt, trứng gà ung
Hẹ bông nấu với lòng
Cá thu thì kho rục …
Thương thay, hỡi các chú ơi
Ăn uống đã rồi thầy kể một văn:
Quý Tỵ giữa ngày mồng năm,
Giờ Dần chính nguyệt ầm ầm huyên hoa
Một chi đánh ở Đống Đa
Cầu Duệ kéo đến tốt xa muôn phần
Phép voi bại trận tiên phong
Cầu nhương sụt cả xuống sông Bồ Đề
Đao binh tử trận đầy khe
Dọc đường gài gác nằm kề ngăn ngăn
Chú sang cứu viện nước Nam
Chẳng may gặp phải suối vàng thương thay
Chú thì thắt cổ trên cây
Chú thì tự vẫn ở ngay trong nhà
Chú thì thác xuống Diêm La
Chú nào còn sống về nhà đại minh
Ai ai là chẳng đeo tình
Di Đà tiếp dẫn chúng sinh cô hồn
Chú nào có vợ có con
Có cha có mẹ hãy còn giỗ chung
Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông
Nam Kinh, Quảng Bắc có lòng sang đây
Trời làm một trận gió lay,
Sống làm tướng mãnh, thác rày thần linh
Phù hộ tín chủ bình an
Cửa nhà phú túc vững bền cao xây
Mạo chiên nón khách móng giầy,
Đuôi sam hảo tố chú rày cần lo
Chú thiêng nao đấy phụng thờ
Kính quan tôn sứ để nhờ hậu lai
Nhớ xưa chú vác lăng bài
Cung đao tay nỏ, đầu cài nón chiên
Tay vòng bạc, cổ đeo tiền
Cờ mao một ngọn xông tên chiến trường
Điền Châu Thái thú đảm đương
Liều mình tử trận chiến trường nên công
Trận vây ở trong Năm Đồng
Rạng ngày mồng sáu cờ dong lai hàng
Còn ông Tổng Đốc ban sang
Quyết liều một trận chiến trường ba quân
Muốn cho được chữ ái ân
Tuyền quyền vai gánh trung cần đế vương
Vua sai bộ sứ tiếp sang
Quan tài phong kín đón đường kéo ra
Con con cháu cháu hằng hà
Mừng lấy được xác Điền Châu đem về
Tướng tài can đảm cũng ghê
Làm đền phụng sự tức thì Đống Đa
Các chú thác xuống Diêm La
Bắc Nam đôi ngả trẻ già cùng thương
Cơm dày áo nặng nhà vương
Bõ công gối đất nằm sương bao đành
Thác ở chiến trận nên danh
Về thời vua giết chẳng lành được đâu
Chú thì thác ở đầu cầu
Chú thì tự vẫn đâm đầu xuống ao
Ai ai trông thấy thương sao
Lập đàn chẩn tế mà kêu cô hồn
Gọi là mảnh áo thoi vàng
Ít nhiều làm của ăn đường sính thiên
Khuông phù tín chủ bình an
Gái trai già trẻ thiên niên thọ trường.
(Vè Thiên triều văn)
Thân tôi coi vịt cực khổ vô hồi
Sáng ra ngồi trông trời mau xế như chúa trông hiền thần
Hai cẳng lần lần như Địch Thanh thắng trận
Quần áo chưa kịp bận như Tào Tháo bị vây
Tay cầm cái cây như Tề Thiên cầm thiết bảng
Vịt chạy qua bờ
Ngăn đón cản như Tiết Nhơn Quý rượt Cáp Tô Văn
Quần bận còn xăn như Uất Trì tắm ngựa
Vịt ăn
Ngồi dựa bóng tùng như Tần Thúc Bảo lúc bệnh đau
Vịt chạy
Đuổi lao xao như La Thông tảo Bắc
Tối về nhà đèn chưa tắt
Như đãi yến công nương
Ngày ra tới đứng ngoài đường,
Chiều về như Phàn Lê Huê nhập trại.
(Vè chăn vịt )
Bài chòi bài tới là ba mươi lá
Dang tay xớn xá là cái gã Ông Ầm
Hay đi sụp hầm, là anh Tứ Cẳng
Một dề trăng trắng, là chị Bạch Huê
Ăn cận nằm kề, là anh Chín Gối
Ba chìm bảy nổi, là chị Sáu Ghe
Lập bạn lập bè, là anh Năm Dụm
Hay đùm hay túm, Tứ Xách đã quen
Quần áo lèng teng, Nhì Nghèo cực khổ
Hay bươi hay mổ, là chị Ba Gà
Có ngạnh có ngà, là anh Tứ Tượng
Phủ màn treo trướng, là chị Tám Dừng
Ướt áo ướt quần, là anh Ngũ Trợt
Rung cây không rớt, Tứ Móc thiệt hay
Con mắt nhắm ngay, Tam Quăng thiệt giỏi …
(Vè bài chòi)
Chợ Lường họp lại vui thay
Đàng đông lúa gạo, đàng tây tru bò
Xã đã khéo lo
Lập lều hai dãy
Hàng sồi hàng vải
Thì kéo lên đình
Hàng xén xung quanh
Hàng thịt hàng lòng ở giữa
Ngong vô trửa chợ
Chộ thị với hồng
Dòm ngang xuống sông
Chộ thuyền với lái
Ngong sang bên phải
Chộ những vịt gà
Hàng nhãn, hàng na
Hàng trầu, hàng mấu
Hàng ngô, hàng đậu
Hàng mít, hàng cà
Hàng bánh, hàng quà
Hàng chi có cả
Rồi nào hàng cá
Hàng bưởi, hàng bòng …
(Vè chợ Lường)
Lía ta nổi tiếng anh hào
Sơn hà một góc thiếu nào người hay
Bạc tiền thừa đủ một hai
Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông
Làm cho bốn biển anh hùng
Mến danh đều tới phục tùng chân tay.
Kẻ nào tàn ác lâu nay
Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung
Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng
Thảy đều kinh sợ vô cùng lo toan
Nhất nhì những bực nhà quan
Nghe chàng Lía doạ kinh hoàng như điên
Nhà nào nhiều bạc dư tiền
Mà vô ân đức, Lía bèn đoạt thâu.
Tuy chàng ở chốn non đầu
Nhưng mà lương thực vật nào lại không
Lâu la ngày một tụ đông
Vỡ rừng làm rẫy, vun trồng bắp khoai
Mọi người trên dưới trong ngoài
Thảy đều no đủ sớm trưa an nhàn
Tiếng tăm về đến trào đàng
Làm cho văn võ bàng hoàng chẳng an.
Nam triều chúa ngự ngai vàng
Bá quan chầu chực hai hàng tung hô
Có quan ngự sử bày phô
Tâu lên vua rõ lai do sự tình
Đem việc chàng Lía chiêu binh
Trình lên cặn kẽ phân minh mọi đàng
Nào khi Lía phá xóm làng
Đến khi lên núi dọc ngang thế nào
Kể tên những bậc phú hào
Từng bị quân Lía đoạt thâu gia tài
Vua ngồi nghe rõ một hai,
Đập bàn, vỗ án giận rày thét la:
– Dè đâu có đứa gian tà
Giết người, đoạt của thiệt là khó dung
Truyền cho mười vạn binh hùng
Dưới cờ đại tướng binh nhung lên đàng
Đại quân vâng lệnh Nam hoàng
Hành quân tức khắc thẳng đàng ruổi dong
Gập ghềnh bao quản núi non
Dậy trời sát khí quân bon lên rừng. …
(Vè chàng Lía)
Chồng chung khó lắm ai ơi!
Ai bước chân vô đó,
Không ăn ngồi được mô!
Quyền bán với quyền mua
Thời là em không có,
Đâm gạo với xay ló,
Thời là em đã có phần,
Đập đất với khiêng phân,
Đâm xay, rồi nấu nướng.
…
Gẫm như bọn người ở,
Chỉ sáu tháng thời thôi,
Cái thân em ở đời,
Hỏi làm sao chịu được?
Chồng sai đi múc nước,
Vợ bảo lấy que tăm.
Trải chiếu toan đi nằm,
Đọi dì hai chưa rửa
Có ba bốn thúng lúa,
Chị chồng đầu chân xay.
Cám em bắc lên đây,
Cây rau riu chưa cắt,
Ngọn rau riu chưa xắt.
Em làm công việc vặt,
Vừa đến tối canh ba,
Em vừa ngả mình ra,
Con chim kia vừa kêu,
Con gà rừng vừa gáy.
Chồng đánh em thức dậy,
Biểu nấu cơm đi cày;
Gạo em chưa đâm xay,
Đã soạn gánh gồng cho bà đi chợ.
Một tháng sáu phiên chợ,
Bà cho đi một phiên,
Bà trao cho một tiền,
Bà truyền cho đủ giống,
Mua mười đồng thì trứng,
Lại mua mười đồng trầu,
Mua mười tám đồng cau,
Hai mươi đồng thì mỡ,
Lựa còn một chữ,
Tráo lại hàng vôi
Mua đoạn, bán rồi
Vừa hầu tan buổi chợ
Về đến đầu ngõ,
Con đòi: “Bánh mẹ mô?”
– Được chồng riêng tê tồ
Chồng chung, mẹ nỏ dám mua thứ gì!
(Vè chồng chung)
Ve vẻ vè ve
Nghe vè mụ nhác
Không lo sương nác
Chỉ biết ngồi ăn
Ăn rồi lại ngủ
Ngủ rồi lại ngồi
Nước chảy bòng trôi
Mỗi ngày qua bữa
Luộc rau nhác rửa
Uống nước nhác hâm
Chàm làm chụa lụa
Ngó xuống đôi đũa
Lọ luốc lọ lem
Ngó lại chị em
Xem ra ôốc dôộc
Ngó lại trên trốc
Rận mẹ rận con
Nói không kiêng dè
Chỉ hay sinh sự
Cái mặt chự bự
Như thể cái mâm
Tấm lưng tày thúng
Dân chúng đều hay
Ai ai cũng biết
(Vè mụ nhác)
Vè chữ phu
Chữ phu là dại
Tơ hồng dán lại
Nên điệu vợ chồng
Đụng con gái hung
Lang dâm trắc nết
Mình làm chí chết
Nó duỗi cẳng nó ăn
Sắm áo sắm khăn
Sắm vòng sắm niểng
Mình nói một tiếng
Nó nói lại mười
Mình làm cả đời
Nó tiêu một lát
Nó mê chốn khác
Nó bỏ nó đi
Mình nói nó săn si
Chữ phu là dại
(Vè chữ phu)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè cờ bạc
Đầu hôm xao xác
Bạc tốt như tiên
Đêm khuya hết tiền
Bạc như chim cú.
Cái đầu sù sụ
Con mắt trõm lơ
Hình đi phất phơ
Như con chó đói
Chân đi cà khói
Dạo xóm dạo làng
Quần rách lang thang
Lấy tay mà túm…
(Vè cờ bạc)
Giữa năm Đinh Dậu mới rồi
Sư ông chùa Lãng là người đảm đang
Viết tờ quyên giáo các làng
Lãng Đông, Năng Nhượng chuyển sang Trực Tầm
Chiều hôm còn ở Đồng Xâm
Rạng mai Đắc Chúng, tối tầm Dục Dương
Cùng với nghĩa sĩ bốn phương
Phất cờ thần tướng mở đường thiên binh
Phá dinh công sứ Thái Bình
Sa cơ ông đã bỏ mình vì dân.
(Vè Phá dinh công sứ Thái Bình)
Vo vỏ vò vo
Cây nhỏ cây to
Cây cò đậu
Cây sáo sậu trèo
Cây rắn leo
Cây mèo nhảy
Cây gãy cành
Cây xanh lá
Cây xây rạ
Cây chồng rơm
Cây đơm quả
Cây xả hương
Cây bám tường
Cây cắm đất
Ta ngồi ta nói thật
Cây tre xanh cật
Ruột trắng như bông
Cây mít đỏ lòng
Cây thông nứt vỏ
Cây ngó thân mềm
Cây sên cứng cáp
Cây núc nác da xanh
Cây chanh chua quả
Cây vả cây sung
Là cùng chú bác
Cây năn cây lác
Hay mọc giữa đồng
Cây đậu cây bông
Hay ưa ruộng cạn
Cây khoai lạng vạng
Leo dọc vồng cao
Ăn quả cây nào
Ta rào cây ấy
Quả hồng béo ngậy
Da đỏ hồng hào
Quả cam xanh xao
Múi ăn thì ngọt
Quả bòng quả nhót
Chua lét chua le
Quả đào ngon ghê
Quả na ngon gớm
Quả thị vàng rộm
Thơm lựng cả nhà
Hương ổi bay xa
Gọi người đến hái
Còn cây cỏ dại
Chẳng ai thèm nhìn
Mời bạn ngồi im
Nghe tôi nói thật
Cây lúa là nhất
Ở giữa trần đời
Ta đi dạo khắp trăm nơi
Cây lúa đẹp nhất ở nơi đồng làng
Một cây
Hai cây
Ba cây
Bốn cây
Năm cây
Cây làm vày
Cây làm cột
Cây che dột
Cây làm xà
Cây cúng hoa
Cây đơm trấy
Cây cho gậy
Cây đóng thuyền
Cây đan phên
Cây chắn giậu
Cây đậu leo
Cây khiêng heo
Cây đèo chó
Cây đánh hổ
Cây bắt voi
Cây làm roi
Đi đánh giặc.
(Vè về cây)
Năm nay kinh tế
Không tiền đóng thuế
Lính bắt, lính còng
Vợ con khóc ròng
Mấy ông thiệt tệ
Tháng này thuế vụ không lo
Cơm ăn không no
Tiền đâu mà đóng
(Vè chống thuế)
Da dẻ vàng khè
Là anh chàng thị
Tròn như lợn ỉ
Là quả dưa vàng
Nằm đất lang thang
Là anh dưa chuột
Mồm nói ngọt xớt
Là mấy cô hồng
Xù xì lắm lông
Là anh cu dứa
Da đỏ như lửa
Là thằng ớt cay
Má mịn hây hây
Cô mơ cô mận
Ruột thì đỏ thắm
Là cái ả đào
Hay rụng xuống ao
Thằng sung chua chát
Da vàng trơn mát
Là quýt với cam
Chua rụng răng hàm
Cô chanh cô khế
Xinh tròn be bé
Em táo đầu nhà
Con bảy con ba
Chị dừa mắn đẻ
Hàm răng to khoẻ
Là bác chuối tiêu
Nằm đất mốc meo
Là anh chàng bí
Thon như cái bị
Là chị bầu xanh
Dáng dài thanh thanh
Cô xoài cô mướp
Mình dài gai góc
Cụ mít nhà ta
Đỏ bóng nước da
Cà chua chính cống
Vỏ xanh ong óng
Chính thị bà cau
Nam nám da nâu
Hồng xiêm, mắc cọp
Xù xì bỏng rộp
Mướp đắng eo ôi
Ngọt mát cả môi
Xin chào cô nhãn
Mặt mày đỏ thắm
Cô vải đang chờ
Mắt mở lơ mơ
Thằng na buồn ngủ.
(Vè các loại quả)
Một chén giải cơn sầu
Hai chén còn nhơn đạo
Ba chén còn gượng gạo
Bốn chén nổi sân si
Năm chén sập thần vì
Sáu chén ngồi ghì xuống đó
Bảy chén thì đuổi chẳng đi
Tám chén lóc trộn lộn ra
Chín chén lóc trộn lộn vô
Mười chén ai xô tôi ngã
Mười một chén chửi cha ai xô
(Vè bợm nhậu)
Vè các lái (hát ra)
Tiếng đồn các lái Đồng Nai
Tháng giêng cưa ván, tháng hai đóng thuyền
Tháng ba củi lửa huyên thuyên
Tháng tư dọn thuyền quay lại lộn ra
Sài Gòn, Rạch Giá bao xa
Lần theo tăm cá xa nhà đã lâu
Một trăm ông lái làu làu
Đi qua Giáp Nước, Vũng Tàu phải ghê
Kỳ Vân có bãi lưới rê
Non cao biển thẳm ủ ê tấc lòng
Khúc nôi lụy nhỏ đằm đằm
Xích Ram đã khỏi, Bãi Dầm đã qua
Hồ Tràm, Hồ Đắng de ra
Thân Trong nằm trước, Mũi Bà nằm trong
Cù Mi thượng hạ song song
La Gi nằm khuất phía trong Hòn Bà
Cây Khô, Cửa Cạn đã qua
Trực nhìn Khe Cả nay đà kề bên
Dập dìu ghe lưới bủa chen
Xa trông đã thấy Mũi Đèn ở kia
Đồn rằng Phan Thiết lịch thay
Sớm chiều phiên chợ tối ngày bán buôn
Trên đường xe chạy bon bon
Dưới sông thuyền đậu bán buôn rộn ràng
Phú Hài chừ đã liền sang
Buồm dong ba cánh lòng càng thảnh thơi
Mũi Né ta sẽ buông khơi
Trong thời có xóm ăn chơi bĩ bàng
Anh em nước, củi đàng hoàng
Nước mắt hai hàng lụy nhỏ xót xa
Hòn Nôm, Quảng Thí kia là,
Ngó lên Mũi Nhỏ, trông qua Hòn Nghề
Ngồi buồn cám cảnh ê chề
Hỏi con sống bổ tới quê bao thì?
Con Nghê sao khéo dị kì
Ra nằm nước mặn luận chi thương hàn
Mãi trông vừa thấy một đàng
Đi ngoài Nội, Ngoại, cầm làn gác giăng
Anh em bèn bảo nhau rằng
Trầu cau, nước hết, gác giăng làm gì?
Quạt cào sang kiếm một khi
Chụt Đèn đã khỏi, tới thì Lò Kho
Tai nghe lưới đánh, mành hò
Buông lên một đỗi còn lo xùng xình
Ngó lên Bãi Miễu vắng tanh
Tứ bề quạnh quẽ trong mình xót xa
Có người cố quận kia là
Mai qua Bãi Chụt để mà gặp nhau
Vừa chào, vừa chạy cho mau
Kẻ lo mua bán, người sầu niềm tây
Cầu Đá, Cửa Bé là đây
Bãi Dông đã khỏi ló rày Nha Trang
Trên thời quán xá rộn ràng
Dưới sông thuyền đậu nghinh ngang quá chừng
Gặp nhau mừng rỡ tưng bừng
Rượu trà thết đãi vui chung chào mời
Kẻ thời ăn uống vui chơi
Người thời ve vãn những lời nguyệt hoa
Kẻ thời mua song cùng lá
Người thời mua đệm, mua cau, mua hèo
Kẻ thời mua dây buộc lèo
Người mua sống lá đem theo xỏ tiền
Kẻ mua thuốc bánh, thuốc viên
Người mua thuốc xấp để nguyên đem về
Đôi ta kết nghĩa phu thê
Cùng qua mua bán mà mê tấm tình
Đất Chụt là đất nhàn thanh
Trai chuyên biển giã, gái rành bán buôn
Thôi thôi chớ nói thêm buồn
Kéo neo mà chạy đi luôn kịp thời
Ngó vô Hòn Đất thương ôi
Ngoài thì Hòn Bạc lẻ loi một mình
Vũng Túc, Cầm Bấc cảnh xinh
Muôn Xưởng, Hòn Nọc liên kinh Chà Là
Cây Sung, Mũi Cỏ đã qua
Bến đò Cồn Cạn vang xa tiếng đồn
Hòn Lớn, Hòn Nhỏ chỉn khôn
Cứt Chim, Hòn Đỏ đêm hôm nào lầm
Trông lên một đỗi tăm tăm
Gần nơi Cửa Nhỏ rạng danh Bãi Trường
Trâu Nằm ngoài nước chín phương
Sóng xô, gió tạt mênh mông tứ bề
Xa Cừ cách trở sơn khê
Buông lên một đỗi ngó về Ba Gia
Đồi Mồi chớn chở xê ra
Thông trong Cát Thắm chạy ra Hòn Gầm
Hòn Gầm sóng bổ lao xao
Vát mặt nghinh vào Bãi Võ sóng ngang
Thương con nhớ vợ trăm đàng
Nước mắt hai hàng lệ ứa thấm biên
Sừng sững Đá Chồng mọc lên
Bia tạc để truyền nối đức Hùng Vương
Hướng lên một đỗi dặm trường
Vũng Rô núi tấn bốn phương như nhà
Đầu gành Mũi Nạy xê ra
Bên trên có bãi hiệu là Bãi Môn
Bãi Tiên, Bãi Xép kề bên
Hòn Khô nằm trước ấy miền Trà Nông
Biển bờ lai láng mênh mông
Ngó vô thấy tháp Dinh Ông, Đà Rằng
Chóp Chài, Ma Liên, Mây Nứt chừng ngằn
Hòn Chùa, Hòn Dứa nằm giăng kia là
Hòn Yến, Cát Xối đã qua
Mồ xây mả đắp đồn xa ông Cao Biền
Vốn là người ở Đại Niên
Tìm long điểm huyệt, dựng nên chốn này
Bàn Thang lum lúp lá, cây
Anh em cố nhớ, kẻo rày dễ quên
Hòn Lao nước chảy hai bên
Thông trong Rạn Lẽ, phía trên Vũng Bầu
Ngó vô Cửa Mới thêm rầu
Nay bồi, mai lở cạn sâu vô chừng
Gặp nhau nửa tủi nửa mừng
Xa xa Cát Xối liền chưn Mái Nhà
Gành Đen chớn chở xô ra
Gò Bàng cát sạn ăn qua Bãi Trầu
Sơn Đài xanh ngắt một màu
Hòn Yến cui cút lại hầu ngoài khơi
Mưa sa gió lạnh tợ đồng
Bãi Ngang, Gành Đỏ bạn cùng làng đôi
Buồm dong, mắt ngó biển trời
Ngó ra Lao Xá lẻ loi một mình
Trông về Vũng Lấm rất xinh
Vôi tô, ngói lợp, chen chân phố phường
Đây kia nhà ở hai phương,
Bắc cầu Sông Cạn làm đường vãng lai
Sáng chiều họp chợ xoay vần
Thuyền bè tấp nập, khách thương đủ miền
Trực tình nhớ tới sự riêng
Kéo neo mà chạy nhắm miền quê xưa
Hết Thìn sang Tỵ vừa trưa
Song Giang nước lớn đò đưa Sông Cầu
Quán Chùa nay ở nơi đâu
Vũng Chào, Vũng Sứ lại hầu Vũng La
Gành Tướng, Mũi Móm trông ra
Mò O đã khỏi, sang qua Gành Bà
Ngó về bãi cát Trường Sa
Phong cảnh nơi đó xinh đà quá xinh
Cù Mông, Vũng Trích ăn quanh
Vũng Mú trực chỉ Lao Xanh sáng đèn
Thuận buồn xuôi gió một phen
Ghé vô Cửa Giã trong miền Hòn Mai
Gành Ráng mút tận Bãi Dài
Băng qua Bãi Nhạn vô chơi phố phường
Đi cho thấu chữ Quy Nhơn
Giáp đầm Thị Nại hãy còn sử xanh
Vô chợ ăn bún song thần
Hỏi mua nón ngựa để dành về quê
Thiếu gì hải vị sơn khê
Vào Nam ra Bắc ê chề ngựa xe
Nói ra sợ nẫu cười chê
Có say đất khách mới mê nết người
Nghĩ thôi dạ tợ dầu sôi
Day qua Mũi Mác, San Hô dong buồm
Eo Vượt ló thấy Cỏ, Cân
Vũng Nồm, Vũng Bấc kề gần làng đôi
Ngó vô Cách Thử thương ôi
Trông chồng hóa đá, tích đời con ghi
Vũng Tô, suối Bún là đây
Hòn Khô, Nước Ngọt dựa kề Hòn Lan
Vũng Bầu chếch ở phía Nam
Vi Rồng, Phương Mới giăng ngang kia là
Lố Ông, Mũi Đụn đã qua
Gành Méc đã khỏi, Hà Ra hầu gần
Tiếp theo là xóm Hội Vân
Phong cảnh xoay vần đến mũi Lộ Giao
Vũng Cù sóng bổ lao xao
Nồm thổi ngọt ngào, ghe chạy thưng thưng
An Dũ sâu cạn không chừng
Lời đồn có miếu thổ thần linh ghê
Tam Quan rày đã gần kề
Đất này nổi tiếng Tân Khê nhiều dừa
Nhớ lời thề thốt thuở xưa
Tiếng hát mài dừa lảnh lói thâu đêm
Tai nghe dạ xót niềm riêng
Nhổ neo mà chạy hướng lên Sa Hoàng…
(Vè các lái (hát ra)
U Minh nước đỏ
Choại, dớn, cóc kèn
Ăn ở cho hiền
Dạo chơi với rắn
Bất kỳ sâu cạn
Rắn nước, rắn râu
Bay trên trời cao
Rắn rồng uốn khúc
Chạy ngang chạy dọc
Rắn ngựa phóng theo
Hút gió thật kêu
Là con rắn lục
Mái gầm lục đục
Bò chậm như rùa
Mở xuống bất ngờ
Hổ mây ẩn núp
Coi chừng nó quất
Là con rắn roi
Ra đồng dạo chơi
Là rắn bông súng
Đựng đầy một thúng
Là rắn cạp nia
Ăn rồi ngâm nghe
Hổ hành nấu cháo
Dữ mà nhỏ xíu
Đúng thiệt rắn giun
Chớ nên coi thường
Con rắn ri cóc
Rắn mà muốn học
Làm cậu ông Trời
Có khách hay mời
Là con hổ chuối
Con rắn ri cá
Thấy nước thì ham
Hình vóc hiên ngang
Rắn roi, mỏ rọ
Thật là đáng sợ
Chàm oạp, hổ mang
Xét cho đàng hoàng
Rắn thì có nọc
Đừng châm, đừng chọc
Bỏ mạng lìa đời
Trí khôn con người
Biến loài độc ác
Lấy nọc làm thuốc
Trị bệnh cứu dân
Đau khớp trật gân
Ê mình nhức mỏi
Lại còn một mối
Lấy thịt xé phay
Chiều nhậu lai rai
Bổ ơi là bổ!
(Vè rắn U Minh)
Kể từ quân Pháp sang đây
Hại người cướp của bấy nay đã nhiều
Dân tình đồ thán đủ điều
Căm gan tức chí phải liều ra tay
Anh hùng đã tỏ tài trai
Nữ nhi cũng chẳng kém loài bồng tang
Nhớ xưa phất ngọn cờ vàng
Bà Trưng, Bà Triệu chiến trường xông pha
Cai Vàng lại có bà Ba
Tây Sơn bà Phó cũng là anh thư
Xúm tay xoay lại cơ đồ
Dân yên quốc thịnh phất cờ Việt Nam
Từ ngày quân Pháp kéo sang
Chợ Tràng cô Tám cũng gan anh hùng
Dưới trướng cụ Phan Đình Phùng
Bắt quân lính tập vào tròng trăm tên
Lại như vợ lẽ Đội Quyên
Nam trang cải dạng tìm lên núi rừng
Đúc súng đúc đạn, giúp chồng
Đánh cho quân Pháp hãi hùng đảo điên
Bà Ba Đề Thám truân chuyên
Non sông đã trải mấy phen thác ghềnh
Hồng quần nhẹ bước rừng xanh
Trận tiền giáp chiến đao binh vẫy vùng
Hồng nhan nhẹ bước thong dong
Chính bà cũng dự quân trung luận bàn
Bà Lang Seo mở ngôi hàng
Giả đò hương khói đèn nhang bấy chầy
Hà Nội, Nam Định, Sơn Tây
Nghĩa Hưng đảng ấy nay ngày một to
Chuyện năm Canh Ngọ mới vừa
Việt Nam dân đảng bấy giờ lập ra
Chương trình định liệu gần xa
Trước là dân tộc sau ra đại đồng
Cô Giang cũng bực anh hùng
Dốc tâm thề Đảng một lòng trung trinh
Cùng ai thề chữ tử sinh
Chưa chăn gối cũng vẹn tình sắt son
Chia nhau việc Đảng lo tròn
Tài chính cổ động lại còn giao thông
Thất cơ sự đến khi cùng
Tím gan Yên Bái, đau lòng xiết bao
Thế gian mặc chuyện ra vào
Lòng chung xin nguyện trời cao soi cùng
Chàng theo nước, thiếp theo chồng
Tuồng khi dơ dáng sống cùng hôi tanh
Khen chê phó mặc sử xanh
Treo gương đất nghĩa trời Kinh đời đời.
(Vè cô Giang)
Lẳng lặng mà nghe cái vè giáp tý
Cũng vì thiện ý răn dạy người ta
Biểu đừng kiêu sa vậy mà chịu chết
Kể ra cho hết khắp cả hoàn cầu
Châu Á châu Âu cũng đều chịu khổ.
Đông Dương một chỗ nay đặng bình yên
Cờ bạc huyên thiên ăn chơi đủ việc:
Chỗ thời hát xiếc chỗ hát cải lương
Kẻ coi hát trường người coi làm thuật
Núp nơi vắng khuất xì lác, móc gà
Thín cẩu, công thoa bài cào tứ sắc
Khắp cùng nam bắc đầu đĩ, ca đờn
Sung sướng là hơn, ăn chơi bỏ học.
Mấy thằng cúp tóc mặc áo cẩm châu,
Mấy thằng lái xe trừu cầu ràng đít
Bấy thằng con nít bận áo thật sang
Bấy chú đĩ đàng ngồi xe làm phách.
Ăn chơi đủ cách, tưởng đặng thái bình.
Bão lụt thình lình.Phú Yên, Bình Định,
Khắp cùng tám tỉnh, mưa gió đùng đùng.
Người ta chết hung, Sông Cầu thứ nhứt,
Cù Mông núi nứt, Quảng Nam lở thành,
Nước lớn thình lình, ba ngày không dứt,
Lúa khoai đều mất, giá gạo quá cao,
Lớn nhỏ lao xao, cũng đều chịu đói.
Trời làm tai quái, năm sửu không mưa,
Hạn đã chẳng vừa, thêm sâu sa xuống,
Ăn cùng lúa ruộng, ăn hết bắp bông.
Thập thất cửu không, trời làm quá thắt!
Trời làm quá ngặt, đói hãy còn lâu,
Cầm áo cẩm châu, đem đi mua gạo,
Cầm nồi cầm chảo, bán áo bán khăn,
Bán luôn cả chăn, mua ăn không phỉ,
Mấy con làm đĩ, mặt đói xanh dờn,
Mấy con ca đờn, đói đi không nổi,
Mấy thằng hát bội, chịu bỏ vắng trường,
Mấy chú cải lương, trốn đi đâu mất.
Kẻ thì bán đất, người lại cầm nhà.
Chạy gạo không ra. phải ăn hột cỏ!
Chơi, trời ghét bỏ, để đói nhăn răng!
Phải tính làm ăn, phải lo nghề nghiệp!
Không thời mạt kiếp,khó nỗi sanh tồn!
Khó mà biết khôn, đừng dồn lấy dại!
Lẳng lặng mà nghe cái vè giáp tý
Cũng vì thiện ý răn dạy người ta
Biểu đừng kiêu sa vậy mà chịu chết
Kể ra cho hết khắp cả hoàn cầu
Châu Á châu Âu cũng đều chịu khổ.
Đông Dương một chỗ nay đặng bình yên
Cờ bạc huyên thiên ăn chơi đủ việc:
Chỗ thời hát xiếc chỗ hát cải lương
Kẻ coi hát trường người coi làm thuật
Núp nơi vắng khuất xì lác, móc gà
Thín cẩu, công thoa bài cào tứ sắc
Khắp cùng nam bắc đầu đĩ, ca đờn
Sung sướng là hơn, ăn chơi bỏ học.
Mấy thằng cúp tóc mặc áo cẩm châu,
Mấy thằng lái xe trừu cầu ràng đít
Bấy thằng con nít bận áo thật sang
Bấy chú đĩ đàng ngồi xe làm phách.
Ăn chơi đủ cách, tưởng đặng thái bình.
Bão lụt thình lình.Phú Yên, Bình Định,
Khắp cùng tám tỉnh, mưa gió đùng đùng.
Người ta chết hung, Sông Cầu thứ nhứt,
Cù Mông núi nứt, Quảng Nam lở thành,
Nước lớn thình lình, ba ngày không dứt,
Lúa khoai đều mất, giá gạo quá cao,
Lớn nhỏ lao xao, cũng đều chịu đói.
Trời làm tai quái, năm sửu không mưa,
Hạn đã chẳng vừa, thêm sâu sa xuống,
Ăn cùng lúa ruộng, ăn hết bắp bông.
Thập thất cửu không, trời làm quá thắt!
Trời làm quá ngặt, đói hãy còn lâu,
Cầm áo cẩm châu, đem đi mua gạo,
Cầm nồi cầm chảo, bán áo bán khăn,
Bán luôn cả chăn, mua ăn không phỉ,
Mấy con làm đĩ, mặt đói xanh dờn,
Mấy con ca đờn, đói đi không nổi,
Mấy thằng hát bội, chịu bỏ vắng trường,
Mấy chú cải lương, trốn đi đâu mất.
Kẻ thì bán đất, người lại cầm nhà.
Chạy gạo không ra. phải ăn hột cỏ!
Chơi, trời ghét bỏ, để đói nhăn răng!
Phải tính làm ăn, phải lo nghề nghiệp!
Không thời mạt kiếp,khó nỗi sanh tồn!
Khó mà biết khôn, đừng dồn lấy dại!
Xuống tòa ông sứ lựa được rồi, “mê-rô” ông sứ phát ra ngồi thở than.
Vợ con châu lụy hai hàng, khuyên em ở lại cho chàng dời chơn.
Anh đi ra mỗi bước mỗi ngừng, châu sa lụy nhỏ chín mười từng ruột đau.
Thương nhau phải cứ lời nhau, tri tri vàng đá trước sau một lời.
Anh đi ra mặt biển chưn trời, khuyên em ở lại một lời bình an,
Bảy giờ mai em tuốt xuống Hàn có qua.
Bạc chín chục đồng nhà nước phát ra,
Em đem về mua trâu, thuê đất, làm nhà nuôi con.
Chúc cho hai bên cha mẹ vuông tròn,
Phận anh đây như khúc gỗ trôi giữa biển, mất còn quản chi.
Biểu em đừng nước mắt lâm ly, làm lơ giả dại như khi chưa chồng.
Xuống tòa ông sứ lựa được rồi, “mê-rô” ông sứ phát ra ngồi thở than.
Vợ con châu lụy hai hàng, khuyên em ở lại cho chàng dời chơn.
Anh đi ra mỗi bước mỗi ngừng, châu sa lụy nhỏ chín mười từng ruột đau.
Thương nhau phải cứ lời nhau, tri tri vàng đá trước sau một lời.
Anh đi ra mặt biển chưn trời, khuyên em ở lại một lời bình an,
Bảy giờ mai em tuốt xuống Hàn có qua.
Bạc chín chục đồng nhà nước phát ra,
Em đem về mua trâu, thuê đất, làm nhà nuôi con.
Chúc cho hai bên cha mẹ vuông tròn,
Phận anh đây như khúc gỗ trôi giữa biển, mất còn quản chi.
Biểu em đừng nước mắt lâm ly, làm lơ giả dại như khi chưa chồng.
Từ ngày con bướm trắng bay vô,
Ba năm trời hạn, cây khô lá vàng.
Nấu cơm hấp những cọng lang,
Chuối luộc đầy sàng ăn chẳng biết no.
Nào ai có ruộng có bò,
Mua mắc bán rẻ, bán cho nhà giàu.
Ba quan một cái mâm thau,
Nồi đồng quan tám, nhà giầu không mua.
Mỗi năm lo nộp thuế vua,
lương chẩn lương thải tới mùa phải ra.
Con nít chí lẫn ông già,
Ba ngày gạt gạo đi ra nằm đàng.
Mười đồng một củ khoai lang,
Trời làm đói khát thiếp với chàng xa nhau.
Bất nhân là quân nhà giàu,
Tôi đi ngõ trước, ngõ sau nó rào.
Chị em gặp chẳng dám chào,
giả lơ tai điếc : “mụ nào kêu chi” ?
Tôi đây cũng đói mần ri,
Chị tôi chết trước, tôi thì chết sau.
Nhà giàu kêu đói như đau,
Tự nhiên lúa củ năm sau hãy còn.(*)
Muốn đi cưới vợ cho con,
sợ chúng ăn hết, hoảng hồn thất kinh.
Ba năm tự miếu chí đình,
không cúng không quải, thần linh cũng hằn.
Thợ rèn thợ mộc đói nhăn,
Còn thầy phù thủy mất ăn xôi gà.
Cho đến mụ bóng mụ bà,
Thầy địa thầy thuốc nằm nhà chẳng có mà nhai.
Bĩ cực rồi lại thái lai,
Mùa lúa cũng được mùa khoai cũng dào.
Ăn mừng hát bội xôn xao,
Đi ra gặp mặt chị nào cũng vui...
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè về hoa
Vác mai đi xoi
Là bông hoa giếng
Hay bay hay liệng
Là hoa chim chim
Xuống biển mà chìm
Là bông hoa đá
Bầu bạn cùng cá
Là đá san hô
Hỏi Hán qua Hồ
Là bông hoa sứ
Gìn lòng nắm giữ
Là hoa từ bi
Ăn ở theo thì
Là hoa bầu ngọt
Thương ai chua xót
Là hoa sầu đâu
Có sông không cầu
Là hoa nàng cách
Đi mà đụng vách
Là hoa mù u
Cạo đầu đi tu
Là hoa bông bụt
Khói lên nghi ngút
Là hoa hắc hương
Nước chảy dầm đường
Là hoa mùi tưới
Rủ nhau đi cưới
Là hoa bông dâu
Nước chảy rạch sâu
Là hoa muống biển
Rủ nhau đi kiện
Là hoa mít nài
Gái mà theo trai
Là hoa phát nhũ
Đêm nằm không ngủ
Là hoa nói ngày
Bạn chẳng lìa cây
Là bông hoa cúc
Nhập giang tuỳ khúc
Là bông hoa chìu
Ở mà lo nghèo
Là hoa đu đủ
Đi theo cậu Thủ
Là hoa mồng quân
Đánh bạc cố quần
Là bông hoa ngổ
Ngồi mà choán chỗ
Là hoa dành dành
Giận chẳng đua tranh
Là bông hoa ngải
Bắt đi tha lại
Là hoa phù dung
Ăn ở theo luồng
Là bông hoa thị
Theo mẹ bán bí
Là hoa thanh hao
(Vè Hoa Lá)
Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Khuyến Học, Quê Hương, Đất Nước
Cơn mây gió trời Nam bảng lảng
Bước anh hùng nhiều chặng gian truân
Ngẫm xem con tạo xoay vần
Bày ra một cuộc duy tân cũng kì
Suốt thân sĩ ba kì Nam Bắc
Bỗng giật mình sực thức cơn mê
Học, thương, xoay đủ mọi nghề
Cái hồn ái quốc gọi về cũng mau
Hồn đã tỉnh, bảo nhau cùng dậy
Chưa học bò vội chạy đua theo
Khi lên như gió thổi diều
Trong hò xin thuế, ngoài reo hãm thành
Cách hoạt động người mình còn dại
Sức oai quyền ép lại càng mau
Tội nguyên đổ đám nho lưu
Bắc kì thân sĩ đứng đầu năm tên
Người tỉnh Bắc, Nguyễn Quyền là một
Cơn nhiệt thành lửa đốt buồng gan
Đùng đùng gió cuốn mây tan
Lạng thành giáo chức từ quan cáo về
Mở tân giới, xoay nghề tân học
Đón tân trào, dựng cuộc tân dân
Tân thư, tân báo, tân văn
Chân đi miệng nói xa gần thiếu đâu
Trường nghĩa thục đứng đầu dạy dỗ
Khắp ba mươi sáu phố Hà thành
Gái trai nô nức học hành
Giáo sư mấy lớp, học sanh mấy ngàn
Kỳ diễn thuyết người xem như hội
Buổi bình văn khách tới như mưa
Nôm quốc ngữ, chữ Hán thư
Bài ca yêu nước, câu thơ hiệp đoàn
Trong chín tháng, sóng tràn gió dập
Tiếng Đông kinh lừng khắp Đông Dương
Khắp đâu đâu cũng học trường
Cùng nhau đua bước lên đường văn minh
Họ càng thấy người mình càng ghét
Càng bảo nhau đè nẹt càng già
Thương ôi ấu trĩ sơn hà
Nước chưa lặng sóng, giò đà rung cây
Trong sóng gió nhưng tay vẫn vững
Bế học rồi lại đứng khai thương
Rủ nhau một hội Hồng Bàng
Hồng Tân Hưng mở ngôi hàng buôn chung
Đồ Nam hóa bá công kỹ xảo
Khách Bắc Hà thập hiệu vãng lai
Sửa sang trong cái khuôn trời
Mở mang trí não cho người nước ta
Trời đương buổi nắng mưa tầm tã
Dấn thân mình đứng giữa cơn giông
Cả gan cho biết anh hùng
Hỏi xem mấy mặt trong vòng trần ai
(Vè Đông Kinh)
Nghe vẻ nghe Ve
Nghe vè về Hoa
Hoa nhài thoang thoảng bay xa
Mùi thơm khác hẳn, thật là có hương
Hoa cúc không sợ thu sương
Để màu ẩn dật, mùi hương đậm đà
Hoa sen mùa hạ nở ra
Ở bùn mà lại không pha sắc bùn
Hoa mai chót vót đỉnh non
Trắng như bông tuyết hãy còn kém xa
Mẫu đơn phú quý gọi là
Hải đường sắc đẹp nhưng mà không hương
Hoa quỳ nhất ý hướng dương
Hoa liễu trong trắng, trông thường như bông
Phù dung mọc ở bên sông
Hoa đào gặp được gió đông mới cười
(Vè Về Hoa)
Vè con gái (2)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè con gái
Vừa ăn vừa đái
Vừa địt vừa ho
Lỗ mũi thò lò
Lấy tay mà quẹt
Nấu cơm khét lẹt
Kho cá khét ngầm
Ban đêm đái dầm
Ban ngày ỉa trịn
(Vè Con Gái)
Tai nghe Nhà nước mộ dân
Đêm lo ngày sợ chín mười phần em ơi!
Anh ra đi mặt biển chân trời
Ơn cha nghĩa mẹ hai vai chưa đền
Dầu mà Tây bắt làm phên
Dầu thắng dầu bại không quên công sinh thành
Trên trời mây trắng dưới thủy xanh dờn dờn
Tứ bề súng nổ từng cơn
Đau lòng nát dạ nhớ công ơn mẫu từ
Anh ra đi như con cá vào lờ
Rúc vô đăng, đó biết bao chừ đặng ra
Ai về nhắn với mẹ cha
Xuống Hàn chớp bóng gởi qua cho con tường
Kẻo mà đêm nhớ ngày thương
Đĩa xôi miếng bánh cũng thường cho con.
Những lo những sợ chín mười phần em ơi
Anh đi mặt biển chân trời
Ơn cha nghĩa mẹ hai nơi chưa đền
Dầu mà ông Tây có bắt đi làm phên
Nhứt thắng nhì bại không quên cái ơn sinh thành
Xót thương em vò võ một mình
Anh đi biển thẳm non xanh tứ bề
Vai mang khẩu súng lưng giắt lưỡi lê
Thôi thôi em bồng con ở lại lo bề làm ăn
Ví dầu anh có mần răng
Nơi mô xứng gió vừa trăng em đành
Phận anh vạn tử nhứt sinh
Trên trời mây đen kịt, dưới nước xanh dờn dờn
Tư bề sóng vỗ từng cơn
Đau lòng xót dạ nhiều cơn bớ nàng
Trăm lạy ông trời cho đặng chữ bình an
Đóng lon chức đội về làng hiển vinh
Làm thịt con heo cúng tế tại đình
Rượu chè chàng đãi dân tình một phiên
Tay bắt tay miệng lại hỏi liền
Anh đi mấy tháng anh có phiền hay không
Bây giờ anh bước xuống tàu đồng
Tối tăm mù mịt như rồng trong mây
Hai bên những lính cùng Tây
Quan gia kéo tới chở đầy tàu binh
Từ đây hai chữ tùng chinh
Phận anh cam chịu linh đinh sóng dồi.
(Vè lính mộ)
Trách vua Tự Đức hai lòng
Đi về bên đạo, bỏ công bên đời
Mần quan ra rồi
Vượt lòng không cạn
Tây sang buôn bán
Viện lấy giữ nhà
Ai biết sự là
Tây sang cướp nước
Khi mới sang, đánh được
Răng không đánh đi cho
Những bậc quan to
Đều cáo quan về lão
Quan huấn, quan giáo
Gánh của về mần giàu
Mần quan lớp sau
Ra tuồng đã khổ
Mần quan hậu thổ
Phải ăn lương nhà
Xuất thân xông pha
Cức mình biết mấy
Tây sang hắn quấy
Hư hại nước Nam
Trở ra mà làm
Nhờ vua ái ngại
Ăn lương vua mãi
Trở lại mần quan với Tây
Đi ra không nhớ nghĩa thầy
Cũng đòi ôm quyển sách
Ba năm vua hạch
Học trò đi thi
Đỗ được ông chi
Cũng nhờ cái phận
Ra trữa chiến trận
Thiên hạ chết nhiều
Mần quan bên triều
Trở lại mần quan bên giáo
Nó thà cáo lão
Cũng như không đi
Như ông quan lĩnh tác vi
Cũng đòi làm quan trữa tỉnh,
Đem Tây đem lính
Đốt biết mấy ngày
Khói lửa chất đầy
Một trời đỏ đậm.
Nhờ quan cậu ấm
Bọc lại bên sông
Đốt phá hại đồng
Nhất là quan lĩnh.
Mần quan trữa tỉnh
Ai được cậy nhờ?
Xuân Liễu, Xuân Hồ
Mần giặc ở mô?
Tây biết hắn vô
Cắn răng mà chịu
Mần đồn Xuân Liễu
Các quan ta kép về Tây
Sức phu chặt cây
Tre gai rào bên đạo
Ông tra, bà lão
Đời thủa mô như ri
Kiếp người năm ni
Mần dân đã khổ
Nho Lâm, Lò Cổ
Đốt biết mấy ngày
Bỏ nhà mà đi
Quyên sắt về rèn đồ hoả mại
Rèn đồ khí giới
Súng ống cho nhiều
Cho đủ phạng, siêu
Tháng năm chưa dễ
Thúc thành đội vệ
Tuyển lại tinh binh
Để chờ triều đình
Viện Tàu về đã
Bỏ mành bỏ giã
Vượt biển sang Tàu
Cho khá mau mau
Sang đến năm sau
Tháng mô không định
Ba mươi sáu tỉnh
Tây giữ nẻo đàng
Tàu không thể sang
Bình Tây giúp nước
Ba mươi năm còn được
Nữa là năm sau
Quyên hết nhà giàu
Khẩn đồn điền cày ruộng
Cối xay ba họng
Đổ biết khi mô cho đầy
Trên trời hết mây
Ta đây mới hết tiền, hết bạc
Hồi buổi loạn lạc
Quấy chắc cho hay
Bên giáo có Tây
Ta đây không có
Tàu sang đã chộ
Ăn hết lương tiền
Giừ phải về cho dân yên
Chứ không mần chi được
Quân ông Lưu lớp trước
Nỏ đánh lại Tây
Huống chi là ta
Lưa ba gian nhà
Đừng còn hăm hở
Đi ra cũng lỡ
Ở nhà không đành
Những kẻ học hành
Thúc thành chưa vội
Dân sự ở túp
Thần thánh ở đền
Tại cả hai bên
Ra rồi quấy chắc
Ai sinh ra giặc?
Ai rước Tây về?
Đốt phá hai xã lưa chi
Từng mô dưới tỉnh cu ly
Từng mô đồn binh thế?
Mần quan trữa tỉnh Nghệ
Cức biết mấy phần
Nỏ lẽ về mần dân
Như các quan văn thân
Ra mần mới phải
Đêm nằm nghĩ lại
Nhớ đến đền chùa
Nghĩ rằng như vua
Đang còn phải chạy
Hồi giừ bay nhảy
Giáo múa, gươm khua
Đặt bõ nhờ vua
Một hồi đã sướng
Như ông quan thượng
Ở trữa tỉnh với Tây
Thi đỗ khoa này
Ra mần như rứa
(Vè trách vua Tự Đức hai lòng)
Nghe vẻ nghe ve (4)
Nghe vè bài tới
Cơm chưa kịp xới
Trầu chưa kịp têm
Tôi đánh một đêm
Thua ba đồng rưởi
Về nhà chồng chửi
Nói rằng đau máu
Ăn sáu chén cháo
Chồng đơm không kịp
Ăn một cặp bồ câu
Một đầu cá nhám
Một đám rau lang
Một sàng bánh đúc
Một xách rau rừng
Một cặp bánh chưng
Còn la lưng lửng
(Vè bài tới)
Con Gái,Tính Nết,Thói Hư,Tật Xấu,Ăn Uống,Phương Ngữ,
Nghe vẻ nghe ve (7)
Nghe vè con gái
Tay chân mềm mại
Khác thể bông ba
Chờ mẹ đi ra
Cắp tiền thu giấu
Muốn ăn khoai nấu
Muốn ăn khoai nướng
Muốn ăn xôi chè
Ăn rồi ngồi xếp bè he
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè con gái
Cái lưng bơ bừng cái thúng
Ăn chùng ăn vụng
Cho sướng cái thân
Việc nỏ muốn mần
Dôông thì muốn lấy
Áo năm bảy cấy
Mược vào đi chợ
Béng ướt dụy tôm
Hai tay bóoc lá
Lộ mồm hả ra
(Vè con gái)
Đàng trơn đi cho chóng
Cháo nóng húp lộn quanh
Sự lẹ đã rành rành,
Muốn cho kíp nỏ thành,
Muốn cho chầy răng (sao) được,
Nỏ muốn chầy răng được?
(Vè Con Người)
Miền Đông, Bà Rịa, Vũng Tàu, Miền Trung, Huế, Thừa Thiên, Bình Định,
Vè,
Quê Hương, Địa Danh, Buôn Bán, Sông Nước,Thời Gian,
Vè các lái (hát vô)
Ghe bầu các lái đi buôn
Đêm khuya ngồi buồn, kể chuyện ngâm nga
Bắt từ Gia Định kể ra
Anh em thuận hòa ngoài Huế kể vô
Trên thời ngói lợp tòa đô
Dưới sông thủy cát ra vô dập dìu
Trên thời vua Thuấn, vua Nghiêu
Ngoài dân, trong triều tòa chính sửa sang
Trên thời ngói lợp tòa vàng
Dưới dân buôn bán nghênh ngang chật bờ
Này đoạn các lái trở vô
Thuận An là chốn thuyền đô ra vào
Vát ra một đỗi khơi cao
Ta sẽ lần vào thì tới Cửa Ông
Nay đà giáp phủ Thuận Phong
Hòn Am, Cửa Kiểng nằm trong thay là
Nới lèo ráng bánh trở ra
Khỏi mũi Châu Mới thì ta lần vào
Ngó lên núi Ải rất cao
Ta sẽ lần vào Hồ Chuối, Hang Dơi
Ghe vô củi nước nghỉ ngơi
Hòn Hành nằm đó là nơi Cửa Hàn
Cửa Hàn còn ở trong xa
Ngoài mũi Sơn Trà lại có Hòn Nghê
Bãi Nồm, Bãi Bấc dựa kề
Mỹ Khê làng mới làm nghề lưới đăng
Ngó về Non Nước thẳng băng
Có chùa thờ Phật, Phật hằng linh thiêng
Lao Chàm nay đã gần miền
Hòn Lá, Hòn Lụi nằm liền Hòn Tai
Năm hòn nằm đó không sai
Hòn Khô, Hòn Dài lố nhố thêm vui
Ngó về Cửa Đợi thương ôi
Hòn Nồm nằm đó mồ côi một mình
Tam Ấp có rạn trời sinh
Bàn Than, Cửa Lở liên kinh An Hòa
Sa Cần, Châu Ổ bao xa
Ngoài mũi Cây Quýt thiệt là Tổng Binh
Lâm châm, cỏ ngựa trời sinh
Làng Gành, Mỹ Giảng ăn quanh Vũng Tàu
Nới lèo, ráng lái mau mau
Châu Me, Lò Rượu sóng xao Hòn Nhàn
Vát mặt xem thấy Bàn Than
Ngoài cù lao Ré nằm ngang Sa Kỳ
Quảng Ngãi, Trà Khúc núi chi?
Có hòn Thiên Ấn dấu ghi để đời
Hòn Sụp ta sẽ buông khơi
Trong vịnh, ngoài vời, núi đất mênh mang
Buồm giăng ba cánh sẵn sàng
Anh em chúng bạn nhiều đàng tư lương
Mỹ Á, Cửa Cạn, Hàng Thương
Chạy hết Bãi Trường xích thố băng băng
Vát ra khỏi mũi Sa Hoàng
Kìa kìa ngó thấy Tam Quan nhiều dừa
Hèn chi lời thốt thuở xưa
Nam thanh nữ tú đã vừa con ngươi
Gặp nhau chưa nói đã cười
Kìa mũi Từ Phú là nơi nhiều ghè
Non xanh nước biếc chỉnh ghê
Núi Hương, Gành Trọc dựa kề Lộ Giao
Ngó ra thấy lố Khô Cao
Ta sẽ đi vào cửa cạn Hà Ra
Bàu Bàng, Gành Mét bao xa
Trống Kinh, Hòn Đụn thiệt là Lố Ông
Ngó vô thấy mũi Vi Rồng
Hòn Lan, Nước Ngọt ăn vòng Hòn Khô
Trực nhìn Suối Bún, Vũng Tô
Ông Ầm nằm đó lớn to vô hồi
Thương cha nhớ mẹ bùi ngùi
Hòn núi Kẻ Thử có người bồng con
Nhớ lời thề nước hẹn non
Bồng con tạc đá ghi son để đời
Vũng Nồm, Vũng Bấc buông khơi
Trong vịnh ngoài vời, Hòn Cỏ, Hòn Cân
Nam Lò, Eo Vượt rần rần
San Hô, Mũi Mác ăn lần Hòn Mai
Cửa Giã có hòn án ngoài
Các lái thường ngày hay gọi Lao Xanh
Vũng Mú, trong vịnh ngoài gành
Cù Mông, Vũng Trích ăn quanh bãi liền
Gành Ba ai khéo đặt tên
Cảnh Dương, Gành Móm nối liền Vũng La
Bắt từ Vũng Lấm bương qua
Xuân Đài, Mũi Yến chạy qua Sông Cầu
Mái Nhà, Cát Xối liền nhau
Sơn thủy sắc màu tợ gấm kim quy
Ngó vô mây nước cực kỳ
Trong thì có mả, ngoài thì có lao
Giữa kinh có một Hòn Trào
Hòn Yến, Hòn Mác ăn vào Ma Liên
Hòn Chùa, Hòn Dứa nằm riêng
Chớp Chài nằm đó ăn liền Bãi Dinh
Ngó vô thấy tháp xinh xinh
Nới lèo, ráng lái Bãi Dinh dặm dài
Tuy Hòa cách chẳng bao dai
Qua khỏi nơi này tới cửa Đà Nông
Hòn Khô đá chất chập chùng
Thông trong có vịnh, giữa dòng có kinh
Mũi Nạy có Đá Bia xinh
Tạc để lưu truyền nối nghiệp Hùng Vương
Vũng Rô núi tấn bốn phương
Mịt mờ sơn thủy như sương tựa đồ
Bịt bùng chỉ một đường vô
Dầu nồm, dầu bấc không xô phía nào
Hòn Nưa không thấp không cao
Ta sẽ đi vào Bãi Võ sóng ngang
Hòn Gầm sóng vỗ đá vang
Chạy khỏi Cát Thắm lại sang Đồi Mồi
Anh em lời thốt thương ôi
Đi bảy ngày trời mới tới Bà Gia
Ngó vô bãi cát trường sa
Có đôi lưới bủa, có nhà thôn dân
Xa Cừ nay đã hầu gần
Lần qua Bãi Giếng lánh thân Trâu Nằm
Nam lò Hòn Khói tăm tăm
Cứt Chim, Hòn Bạc, Cây Sung, Chà Là
Nha Trang, Đất Chụt bao xa
Kẻ vô mua đệm, người ra mua chằng
Gặp nhau chào hỏi lăng xăng
Xùng xình Bãi Miễu, phăng phăng lướt vào
Nhìn ra Nội, Ngoại sóng xao
Vát mũi chạy vào Bãi Dài, Con Nghê
Chụt đèn ngó xuống chỉnh ghê
Ngó về Hòn Tý dựa kề Cam Linh
Mò O, Dỏ Tó rất kinh
Lại thêm Đá Vách dựa kề Vũng Găng
Vũng Găng, Đá Vách tựa thành
Hai bên núi tấn vây quanh như buồng
Mặc dầu thuyền đậu bán buôn
Nào ai đình trú ở luôn mặc lòng
Túi thơ bầu rượu rong chơi
Buồm giương ba cánh nhắm vời chạy ra
Nam mù mù, Hòn Chông, Bãi Lúa
Khỏi Ma Văn ới tới Phan Rang
Vũng Tròn lai láng nguồn cơn
Trông xa thăm thẳm là rừng Mũi Dinh
Qua Mũi Dinh cho liền Chín Vại
Tắt mặt trời các lái ra đi
Nhắm chừng bãi lưới một khi
Tây phương chỉ mũi lái thì gác Đông
Gò lèo ba cánh thẳng dong,
Cà Ná đã tới khu Ông đã gần
Lao Cau sóng vỗ rần rần,
Cà Ná Bực Lở cũng lần mà qua.
Gò lèo ráng lái gác ra,
Lòng Sông, Mũi Chọ thẳng ngay La Gàn
Ngó vô thuyền đậu nghênh ngang
Gành Son, Trại Lưới tiếng vang làng nghề
Cửa Duồng nay đã gần kề
Lạch kia Phan Rí ghe nghề xôn xao
Nhắm chừng Mũi Nhỏ băng qua
Vũng Môn, Đá Dựng đã xa Hòn Hường
Hòn Nghề, Quang Thí dựa nương
Hòn Rơm, Mũi Né là đường vô ra
Ghe thuyền tụ tập gần xa
Phú Hài, Phan Thiết ấy là trạm trung
Hỡi ai đốn củi Gành Thông
Sơn lâm một gánh chất chồng hai vai
Kê Gà nay đã đến nơi
Anh em làm lễ một hồi cho qua
Nới lèo, quay lái trở ra
Hòn Lan, Cửa Cạn ấy là Tam Tân
Sóng ào ào, buồm giương ba cánh
Chạy một hồi tỏ rạng La Gi
Hòn Bà, Rạn Gõ một khi
Ngoài khơi Rạn Đập, trong ni Rạn Hồ
Buồm giương ba cánh chạy vô
Hòn Bà, Hóc Kiểm quanh co Hồ Tràm
Kim ngân lễ vật cúng dường
Lâm râm khấn nguyện lòng thường chớ quên
Bãi Giống chạy thẳng Xích Ram
Lưới Rê qua khỏi, Rạn Cam nằm ngoài
Ngoài Ba Lũy sóng rền Cửa Cạn
Vát một hồi tỏ rạng Thùy Vân
Ngoài Kỳ Vân trong liền Giếng Bộng
Vát một hồi lồng lộng ra khơi
Ba non chót vót cao vời
Muốn cho khỏi rạn phải lơi ra ngoài
Vũng Tàu kia đã đến rồi
Trình đồn, rồi lại thẳng nơi Sài Gòn
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về
(Vè các lái hát vô)
Lẳng lặng mà nghe
Tôi nói cái vè
Vè các thứ bánh
Mấy tay phong tình huê nguyệt
Thì sẵn có bánh trung thu
Mấy ông thầy tu
Bánh sen thơm ngát
Ai mà hảo ngọt
Thì có bánh cam
Những kẻ nhát gan
Này là bánh tét
Còn như bánh ếch
Để mấy ông câu
Hủ lậu từ lâu
Thì ưa bánh tổ
Mấy tay hảo võ
Bánh thuẫn sẵn sàng
Các thứ bánh bàn
Kính như chấp bút
Ai năng thống phúc
Nên đụng bánh gừng
Còn bánh ếch trần
Cu li chia lấy
Kẻ nào trồng rẫy
Thì sẵn bánh khoai
Mấy gã uống say
Bánh men rất quý
Này bánh bao chỉ
Để các thợ may
Má phấn bông tai
Thì ưa bánh dứa
Những người thổi lửa
Thì có bánh phồng
Bánh kẹp bánh còng
Để cho đạo tặc
Còn bánh quai vạc
Đạo chích muốn ăn
Ai thích thoát giang
Thì ăn bánh lọt
Trôi nước rất ngọt
Để các thuyền chài
Dầm mưa hoài hoài
Thì ăn bánh ướt
Bất toại vô chước
Thì ăn bánh bò
Những kẻ hay lo
Ăn bánh tai yến
Ai ham trồng kiểng
Có bánh bông lan
Còn như bánh tráng
Để hạng trai tơ
Mấy ả giang hồ
Bánh bèo sẵn đó
Ai mà mặt rỗ
Thì bánh chôm chôm
Tay xách nách ôm
Bánh bao khá ních
Mấy tay hàng thịt
Da lợn để dành
Còn trã bánh canh
Để ba chú lính
Chủ nhân Lục tỉnh
Thì có bánh in
Đầu bếp mấy tên
Phải ăn bánh rế
Này là bánh nghệ
Cho chị nằm nơi
Kẻ dệt lụa tơ
Bánh tằm sẵn để
Còn như bánh quế
Mấy đấng y sanh
Tọc mạch rành rành
Thì ăn bánh hỏi
Hễ là thầy bói
Thì ăn bánh quy
Mấy ổ bánh mì
Cho nhà nho nhã
Quảng Đông mấy gã
Ăn bánh cà na
Béo thịt thẳng da
Thì ăn bánh ú
Rộng đường mấy chú
Như để sẵn đây
Phật giáo mấy thầy
Xin ăn bánh cúng
Phận tôi lúng túng
Trái đất tôi giành
Ai có lanh chanh
Tôi cho bánh khọt
(Vè bánh trái I)
Bánh đứng đầu vè
Ðó là bánh tổ
Cái mặt nhiều lỗ
Là bánh tàn ong
Ðể nó không đồng
Ðó là bánh tráng
Ngồi lại đầy ván
Nó là bánh quy
Sai không chịu đi
Ðó là bánh bàng
Trên đỏ dưới vàng
Là bánh da lợn
Mây kéo dờn dợn
Là bánh da trời
Ăn không dám mời
Nó là bánh ít
Băng rừng băng rít
Ðó là bánh men
Thấy mặt là khen
Nó là xôi vị
Nhiều nhân nhiều nhị
Là bánh trung thu
Vô lửa nổi u
Ðó là bánh phồng
Ðem thả giữa dòng
Ðó là bánh neo
Ra nắng dẻo queo
Ðó là bánh sáp
Không ai dám xáp
Ðó là bánh xe,
Xỏ lại tréo que
Ðó là bánh rế
Ăn rồi còn ế
Ðó là bánh dừa
Ăn không có chừa
Ðó là bánh tiêu
Ðể lâu nó thiu
Vốn là bánh ướt
Chưa ăn giấu trước
Nó là bánh cam
Bỏ vô khám giam
Ðó là bánh còng
Ôm ấp vào lòng
Nó là bánh kẹp
Xem coi thật đẹp
Ðó là bánh chưng
Chồng nói mới ưng
Ðó là bánh hỏi
Ðêm nằm mệt mỏi
Ðó là bánh canh
Kéo níu từng khoanh
Ấy là bánh tét
Ráp lại từng nét
Nó là bánh gừng
Bước lên có từng
Ðó là bánh cấp
Nằm ngủ dưới thấp
Là bánh hạ nhân
Mình nó trợt trơn
Ấy là bánh lọt
Ăn thơm mà ngọt
Là bánh hoa viên
Ăn khỏi trả tiền
Ðó là bánh bao
Ðem liệng đàng sau
Là bánh quai vạc
Trắng trong như bạc
Là bánh xu xê
Mặt tràng ê hề
Ðó là bánh bún
Mình đen lốm đốm
Là bánh hạt mè
Thấy ai cũng kè
Ðó là bánh dập
Người thích mặt chắc
Ðó là bánh dày
Nói nghe rất hay
Ðó là bánh mật
Bụng no ấm cật
Ðó là bánh âm
Mình mẩy trắng trong
Là bánh bột lọc
Ai cũng mời mọc
Là cái bánh trôi
Ðứng không thấy vui
Ðó là bánh bò
Nằm cứ co ro
Ðó là bánh cuốn
Cái gì cũng muốn
Nó là bánh đa
Dứt hoài không ra
Nó là bánh dẻo
Nổi trôi khắp nẻo
Ðó là bánh bèo
Giàu mãi không nghèo
Chính là bánh khoái
Ðược người ưu đãi
Là bánh phồng phềnh
Nhẹ mỏng và mềm
Ðó là bánh cốm
Áo quần lốm đốm
Nó là bánh gai
Một giống như hai
Chính là bánh đúc
Tròn cho một cục
Ðó là bánh vo
Ăn hoài không no
Ðó là bánh vẽ
Dùng cho lính trẻ
Là bánh chè lam
Ăn uống tham lam
Ðó là bánh ú
Ði mấy không đủ
Ðó là bánh giò
Từng đoạn quanh co
Ðó là bánh khúc…
(Vè bánh trái (II))
Vè ở mướn
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè ở mướn
Muốn cho sung sướng
Sanh tật quáng gà
Đi thì đầu ngả tới ngả lui
Thân tôi ăn cơm muối mặn
Ăn rồi uống hai tô chẵn chọt
Đầu đội nón chút
Vai vác cuốc cùn
Mần giùm mong cho mau tối
Tối về ăn ba hột cơm
Đầu hôm còn lao xao
Khuya lại vắng hoe
Chủ kêu làm bộ không nghe
Ngủ thêm chút nữa
(Vè ở mướn)
Năm Đinh Tỵ mười ba tháng bảy
Nước Nam mình phút dậy can qua
Thái Nguyên nay có một tòa
Khố xanh, khố đỏ được ba trăm người
Cũng chí toan chọc trời khuấy nước
Ông Đội ra đi trước cầm binh
Rủ nhau lập tiểu triều đình
Những là cai đội khố xanh bằng lòng
Duy phó quản bất tòng quân lệnh
Hóa cho nên hủy mệnh xót xa
Sai người mở cửa nhà pha
Đem tù ra điểm được là bao nhiêu?
Truyền tù nhân cứ theo quân lệnh
Chớ thị thường uổng mệnh như chơi
Rồi ra làm lễ tế trời
Cờ đề “Phục Quốc” tài bồi Nam bang
Phong tám tướng quyền đương quân chính
Tù ba trăm với lính ba trăm
Đều cùng phát súng cho cầm
Vai thì vác súng, lưng khuân đủ đồ
Đường tỉnh Thái kì khu chật vật
Các đường dây thép chặt ngay
Bấy giờ chủ tướng ra tay
Chọn đường mai phục, định ngày giao công
Kí dây thép lòng không theo phụ
Nối dây vào đường cũ đánh đi
Đánh về Hà Nội một khi
Trình rằng có giặc ở thì Thái Nguyên
Tòa thống sứ, toàn quyền hội nghị
Lại có lời phủ dụ ra cho
Bây giờ nhà nước sẽ lo
Sang nhà ông sáu nhỏ to sự tình
Tỉnh Thái Nguyên loạn binh quấy rối
Một đám tù, cai đội khố xanh
Vậy nên ông Sáu biết tình
Giấy tư sang tỉnh Bắc Ninh tức thì
Truyền ngũ tỉnh nơi nào cũng vậy
Lính Đáp Cầu phải dậy tiên phong
Lính Tây, khố đỏ hội đồng
Mang quân lên đóng đồn ông Chủ điền
Ngày mười sáu tiến lên giáp trận
Lính Tây đà tử trận trăm ba
Bấy giờ khố đỏ tiếp qua
Súng trường, trái phá, bắn hòa liên thanh
Xông lên thành khố xanh bỏ chạy
Kéo quân vào đóng tại đình trung
Ngoài thời trái phá đùng đùng
Khi vào đến tỉnh sạch không còn gì
Quân ông Đội liền đi lên núi
Đào hầm sâu làm chỗ lánh thân
Nửa đêm quân kéo đi dần
Qua vùng Tam Đảo về gần Vĩnh An
Mang quân thẳng hướng chợ Vàng
Đến làng Hoàng Xá rẽ ngang quân vào
Xã đoàn không biết nghĩ sao
Sai tuần ra hỏi quân nào đóng đây?
Tân quân mới nói khi nay
Các quan đi khôi phục ngày rày nước Nam
Truyền cho dân cứ ăn làm
Các quan đi mở nước không can cớ gì
Xã đoàn lòng vẫn hồ nghi
Tay cầm cái quắm đứng thì giờ lâu
Ông Đội truyền ra chặt đầu
Nếu không biết phép pheng đầu một khi!
Ông Đội sai quân tức thì
Mổ bò giết lợn kịp kì cơm ăn
Truyền đòi các cụ trong dân
Cho báo có giặc tân quân đóng làng
Việt Trì Tây mới kéo sang
Súng ống xe ngựa chật đường kéo đi
Đến ga Hướng Lại gặp thì
Quân Tây đến đó định kỳ nghỉ ngơi
Xe cộ tiếp vận tới nơi
Quân Tây đi trẩy ngất trời ghê thay!
Bài binh lập trận bủa vây
Thổi kèn, súng bắn đạn bay vào làng
Đi đùng như thể ngô rang
Bắn như cuội rải cản đường quân đi
Trời cao còn có thánh tri
Gió mưa kéo đến Tây thì thôi ngay
Đến hai mươi, tin này đã báo
Ông Đội kéo về đóng đạo Giang Tiên
Đêm nghe súng nổ vang rền
Lính thua, lính phải băng miền Tuyên Quang
Xuyên qua đèo Khế, đèo Giàng
Lính thua, lính lại kéo sang Hoàng Đàm
Bên Tây có ông ba xồm
Cho mày đi trước, mày nom beng đầu
Ông ba bắn chẳng trúng đầu
Ông Đội bắn một phát vỡ đầu quan ba
Ngày nổi dậy can qua xối động
Muốn hoàn công trời chẳng cho làm
Sau quân ông Đội phải tan
Quân thua, quân phải kéo sang bên Tàu
Sau chờ nấn ná ít lâu
Nuôi quân dưỡng tướng mưu cầu chuyện sau…
((Vè Đội Cấn)
Khu Bốn đẩy ra
Khu Ba đẩy vào
Bỏ chạy sang Lào
Nước Lào không nhận
Tức mình nổi giận
Lập quốc gia riêng
Thủ đô thiêng liêng
Là huyện Nông Cống
Quốc ca chính thống:
“Dô tá dô tà”
Nông nghiệp nước nhà:
Trồng cây rau má
Biển khơi lắm cá
Mười mẻ một cân
Nhà máy phân lân
Một năm hai tạ
Vang tiếng xa gần
Nem chua toàn lá
Còn công nghiệp hoá
Là phá đường tàu
Đục ống dẫn dầu
Cắt dây điện thoại
Thiên nhiên ưu đãi
Lũ lụt triền miên
Có nhiều nhất miền
Là đất pha cát
Rừng xanh bát ngát
Là rặng phi lao
Gió mát rì rào:
Gió Lào nóng hổi
Công trình nổi trội,
Vượt cả núi non
Cái cầu con con
Gọi là cầu Bố
Mấy cây lố nhố
Gọi là Rừng Thông
Con gái chưa chồng
Đặt vòng tránh đẻ
Thanh niên trai trẻ
Lại bắt về hưu
Làng xóm tiêu điều:
Nông thôn đổi mới
Dựa vào vách đá
Bắn được máy bay
Đàn lợn thả ngày
“Kinh tế hiện đại”
Sản phẩm hàng đầu
Toàn chum với vại
Mấy bà đứng đái:
“Thủy lợi tưới tiêu”
Phá đường tàu nhiều
Rau không kịp mọc
Trẻ con đi học
Thường nắm đuôi trâu
Tiết kiệm xăng dầu:
Bơi qua sông Mã
(Vè Thanh Hóa)
Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị, Quê Hương, Đất Nước
Giáp Thân đã mãn
Ất Dậu tấn lai
Chánh ngoạt sơ khai
Bình yên phước thọ
Nhựt nguyệt soi tỏ
Nam chiếu phúc bồn
Tục danh Hóc Môn
Xứ Bình Long huyện
Hà do khởi chuyện?
Hà sự hàm mai?
Tích ác bởi ai?
Giết quan rửa hận
Nhứt nhơn bất tận
Bá tánh thọ ương
Chẳng nhớ câu “bất cảm hủy thương”
Lại quên chữ “thời thìn vị đáo”
Người sang trọng vô nhơn vô đạo
Muốn đặng mình ích kỷ hại nhơn
Dân Hóc Môn ăn oán uống hờn
Bình Long huyện tha nha thiết xỉ
Tân trào dầu chẳng nghĩ
Có giết sự cũng đành
Giết một người đặng cứu dân lành
Sách có chữ “hại nhơn nhơn hại”
Gẫm đốc phủ giết đà thậm phải
Khai lục tuần địch thể với vua
Theo tân trào phá miễu đốt chùa
Thuở cựu chúa làm Cai Chánh Tổng
Ở một ngày một lộng
Lầu ba từng lại có vọng cung
Nhựt nhựt thường chuông đổ trống rung
Xe song mã sướng đà quá sướng
Dân bần tiện đem lòng chẳng tưởng
Ép lấy dầu nạp thiểu thâu đa
Tục danh chàng là Đốc Phủ Ca
Cập thân tử Phủ Luông mĩ hiệu
Bởi bội quốc hồn phi yểu yểu
Vì phi quân phách quá xa ngàn
Phi ân đã đáng tội chàng
Giết một gã mà răn muôn chúng
Vật phi nghĩa người ngay bất dụng
Nhơn phi ân kẻ chánh mạc giao
Người ở đời như giọt nước sóng xao
Gẫm sự thế như ngọn đèn trước gió
Xưa đạo Phật, lòng đà đành bỏ
Mộ Di Du tấc dạ yêu cầu
Bị tử hình đức Chúa đi đâu?
Cầm thánh giá sao không cứu khổ?
Chẳng qua thiên số
Rước mẫu tử ư thiên đàng
Theo Di Du mình thác chẳng oan
Phải đạo Phật đao tầm vạn đoạn
Nhựt trình đặt đọc chơi cho hãn
Sự bất khả lậu ngôn
Tuy là mình ăn ở tại đồn
Còn sợ nỗi di thần lăng nịnh
Tham biện quan bất định
Tống trát ra cho xã với làng
Gậy tầm vông mõ đánh vai mang
Qua giờ Dậu tự nơi yếu lộ
Chức cựu tân bất khả thệ tề
Năm canh chầy giấc ngủ đã mê
Trở lộn về nỗi sưu với thuế
Qua năm Dậu gẫm âu quá tệ
Dân bần hàn như khúc gỗ tròn
Tưởng có người quá hải vượt non
Ra giúp nước cứu dân thuỷ hoả
Người sang trọng vô ơn, án tả:
Đã quên câu thuỷ thổ quốc vương
Mười tám thôn ai dám trở đương
Hàn nhơn đáo thâu sanh thát tử
Người hữu học, quên câu “thiện ác đáo đầu”
Nhơn tham tài thác tại bao lâu
Điểu tham thực tắc vong mấy khắc
Dân Hóc Môn đau tầm ruột thắt
Huyện Bình Long tợ muối xát lòng
Chữ phu cừu chuyện ấy tưởng xong
Câu tử đạo tu đường ái nhựt
Chớ ỷ cao qườn lớn chức
Ra chăn dân trở lại hại dân
Giết một gã phi ân
Mà cứu dân đồ thán
Phật còn mang tám nạn
Huống chi người sao khỏi tai ba
Huyện Bình Long bất luận trẻ già
Nạp bắt hết giải qua tòa bố
Trời sanh dân vắn cổ
Dẫu có kêu, kêu chẳng thấu trời
Việc tân trào khảo đã hết hơi
Câu tích ác có câu phùng ác
Cư vương thổ sống thời gởi nạc
Tá vương thần thác lại gởi xương
Nhựt trình đặt đặng cho biết chữ phi thường
Ít người biết suy kim nghiệm cổ
(Vè giết đốc phủ Ca)
Quan tướng là quan tướng dai
Tổ tôm xóc đĩa dông dài cả đêm
Canh trước còn khi êm êm
Canh sau thua thiệt ngồi bên lọ hồ
Cái ngoảnh đi thò tay móc lọ
Cái ngoảnh lại chuyện trò tỉnh say
Được thời đàn hát cũng hay
Thua thời đi ngủ lại hay giật mình
(Vè Tổ Tôm, Xóc Đĩa)
Cầu sắt mà bắc ngang sông
Chàng ơi sang tỉnh mà trông chẳng lầm
Hà Nội bắc sang Gia Lâm
Tính cây lô mét độ năm cây tròn
Họa hình Tây bắc ống nhòm
Ngắm đi ngắm lại xem còn cong không
Giở về hội nghị cộng đồng
Đến năm Mậu Tuất khởi công bắc cầu
Mộ phu khắp cả đâu đâu
Xây từ Ái Mộ bắt đầu xây ra
Bắc qua con sông Nhị Hà
Chia khoang làm nhịp, mười ba cột vừa
Lập mưu xây được bây giờ
Chế ra cái chụp để mà bơm lên
Bơm hết nước đến bùn đen
Người chết như rạ vẫn phải len mình vào
Vỡ bơm nước lại chảy vào
Chết thì mặc chết ai nào biết không
Mỗi giờ thuê có một đồng
Xi măng với đá, dây dòng xuống xây
Đóng phà, đóng cột, cắm cây
Xây trên buông xuống thành ngay chân cầu
Bây giờ đục sắt bắc cầu
Cột ngang, cột dọc, đường tàu song song
Bắc từ Dốc Gạch bắc sang
Chính giữa đường sắt làm đường tàu đi
Đôi bên nhịp sắt chữ chi
Bên đi, bên lại chớ hề gặp nhau
Còn hai bên cạnh rìa cầu
Sắt chằng hoa thị đi cầu không kinh
Hai vì đèn máy sáng tinh
Ai đi đến đấy có xinh chăng là
Kẻ đi người lại hằng hà
Mưu kia nào kiệt tính đà cũng thông
Bề khoát tàu chạy bên trong
Khoát vừa ba thước đủ dùng không hơn
Đường ô tô chạy rập rờn
Cũng khoát thước rưỡi đường trơn phẳng lì
Còn đường của An Nam đi
Khoát hơn nửa thước vậy thì tính sao
Bây giờ kể đến bề cao
Cao hơn mười thước ai nào biết không
Làm xong Tây tính tiền công
Lập mưu, lập kế trả công chẳng rành
Chế ra giấy bạc dâu xanh
Trừ tiền giấy bút hết toanh dăm đồng
Tiền công chẳng đáng tiền công
Kẻ còn, người mất mà lòng xót thay!
Hội cầu năm ấy vui vầy
Nhớ ngày hăm mốt tháng hai, công hoàn.
(Vè cầu Doumer)
Tổ cha thằng bố cu gồ
Làm cho tao phải dọn đồ xuống ao
Giường thờ thì ngâm xuống ao
Lại bắt ông vải chui vào bụi năn
Vợ chồng nói chuyện thì thầm
Đêm ngày cắp bị ra nằm cồn Me
Nằm thì lắng tai mà nghe
Nó đang đốt ở ngoài nghè Phú Vinh
Súng thì nó bắn ình ình
Mẹ con giật mình lại phải chạy xa
Sớm mai nó đốt Mỹ Đà
Cửa nhà tan nát, vại cà sạch không
Bấy giờ vợ mới biểu chồng
“Thôi thôi ta phải dốc lòng xin đi”
Chồng thì nó bắt cu li
Vợ thì mặt bủng da chì mà lo
Chẳng qua đến lúc mạt đồ
Nước Nam có đám sao cờ mọc ra
Triều đình bảy vía còn ba
Quân Tây vừa dọa đái ra đầy quần
Cho nên mới khổ đến dân
Tổ tiên cũng bị muôn phần lao đao.
(Vè chửi Pháp và vua quan)
Thấy cậu tôi buồn
Giả tuồng làm vui
Phận tôi là cháu
Ngồi buồn nói láo
Cho cậu tôi nghe
Có một chiếc ghe
Chở ba trăm tượng (voi)
Chờ khi gió chướng
Chạy tuốt về te
Có con cá he
Nó xòe đuôi phượng
Có con khỉ ở trong lùm
Nó nhảy lừng tưng, lừng tưng
(Vè Con Người)
Lẳng lặng mà nghe
Kể vè thằng nhác
Gia đình khổ cực
Vợ yếu con thơ
Chồng ai được nhờ
Chẳng nên trò trống
Nửa ngày thức dậy
Lục đục soong nồi
Vắt áo đi chơi
La cà hàng xóm
Vợ nhờ cày ruộng
Tao bị đau chân
Vợ nhờ quét sân
Đau lưng vẹo cổ
Vợ nhờ bửa củi
Cái búa nó hư
Vợ bảo đi bừa
Sợ rằng trâu húc
Vợ nhờ đi gặt
Tao gánh đau vai
Thở ngắn than dài
Tội tình chị vợ
Ấy thế mà!
Nồi cơm vừa dở
Chưa kịp ai mời
Cúi cổ cúi tai
Một hồi chén sạch
Là cái thằng nhác
Ăn dữ không làm
Nghe vè thằng nhác
Cô bác xóm giềng
Lẳng lặng mà nghe
Cá nuôi thiên hạ
Là con cá cơm,
Không ăn bằng mồm
Là con cá ngác
Không ăn mà ú
Là con cá voi,
Hai mắt thòi lòi
Là cá trao tráo
Không may quần áo
Là con cá chim,
May áo không kim
Là con duối dẻ
Sống lâu mạnh khoẻ
Là cá trường sanh
Ở ngoài đầu gành
Là cá bống cát
Đi thời xách mác
Là con cá đao
Đốn cây mà rào
Là con cá chép
Nó kêu óp ép
Là con cá heo
Buộc lại mà treo
Là cá cờ phướng
Để lên mà nướng
Là cá nóc vàng
Để được hai thoàn
Là cá nhám nghệ
Đi thời chậm trễ
Là cá lù đù,
Đầu óc chù vù
Là con cá úc
Bắt lên chặt khúc
Là con cá sòng
Vợ đánh với chồng
Là con cá sào
Mình cũng như dao
Là cá lưỡi trâu
Eo đầu ngắn cổ
Là con cá ét
Miệng mồm lép xẹp
Là con cá móm
Chơi trăng cả hám
Là con cá thu
Vừa sủa vừa tru
Là cá hàm chó
May ngồi xỏ rỏ
Là cá hàm be
Lắng tai mà nghe
Là con cá mỏng
Việc làm cho chóng
Là con cá mau
Lãi đãi theo sau
Là con cá nóc
Chân đi lốc thốc
Là con cá bò
Ăn chẳng hay no
Là con cá liệc
Gái tham huê nguyệt
Là con cá dâm
Lấy cây mà đâm
Là cá nhám nhọn
Nước da lạm xạm
Là cá nhám trâu
Mặt trắng làu làu
Là cá bạc má
Hình đen như quạ
Là cá ô mun
Đặt giữa đình trung
Là cá ông sáp
Vừa đi vừa táp
Là cá dọ đàng
Kiều lạc khua vang
Là con cá ngựa
Rước thầy về chữa
Là cá tà ma
Đi xét từ nhà
Là con cá sát
Đắp bờ mà tát
Là cá ở mương
Giống không biết đường
Là con cá lạt
Kể cho cô bác
Nghe lấy mà chơi
Kể đã hết hơi
Xin cho tôi nghỉ.
(Vè về cá)
Từ ngày có mặt thằng Tây
Phu phen tạp dịch hàng ngày khốn thân!
Tai vạ trửa dân
Hắn mần đã nghiệt:
Khắp nơi ráo riết
Giở sổ đếm người
Kể chi lão phụ con trai
Người đi phu cũng tội
Kẻ ở nhà cũng tội
Vua quan bối rối
Họ đập đánh lút đầu:
– Phu phải đi cho mau
Việc quan cần cho kịp!
Một ngày phải kíp
Để kiểm phu chợ Lường
Kẻ có vợ, vợ thương
Theo lên đưa đón
Tay xách cái nón
Vai mang cái bù,
Phải một lớp phu
Tai trời ách nước
Vợ về chồng ngược
Đã cực lắm thay
Kẻ bắt giữa ruộng cày
Người không cho sắm sửa
Chồng trốn, bắt vợ
Con yếu, cha đi
Tiếng khóc như ri
Nông nỗi nước ni
Ruộng cày bỏ trắng!
Mẹ già lòng nặng,
Nằm đêm nghĩ lại thương con
Phải trèo núi lặn non
Giữa chân sim bóng đá
Thấy những đá với gỗ
Chộ thấy săng lẻ với kiền kiền
Con chim hót, vượn rên
Con hùm kêu, mang toác
Phu đi lớp trước
Đến Khe Vẽ, Con Cuông
Chộ phụ lão mà thương
Đi đường xa chịu nắng
Đi đường dài say nắng
Phu đi lẳng lặng
Một tháng trời tròn
Có vàng ăn cũng nỏ biết ngon!
Vè đi phu Cửa Rào
Hán Việt,Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị,
Vâng lời troàn ngươn soái
Mình đeo ấn Tổng nhung
Lời khuyên rao chư sĩ anh hùng
Mặt phải trái coi qua thời biết
Mình là con trong đất Việt
Chẳng phải người sanh sản cõi Tây phiên
Mà ham di địch tước quyền
Lại nỡ khiến tấm lòng vô hậu
Chớ bắt chước những loài quân dậu
A dua hùa lưng lớn thờ chồn
Đừng bày theo những đảng ác côn
Ngưỡng mặt dọc mượn hơi lũ cáo
Người Nam bang hữu đạo
Chúa minh quân ơn đức đã trôi dầm
Hai mươi năm trường trị cửu yên
Dành dụm nghiệp Nam triều ba mươi tỉnh
Ngưỡng xem đức hoá ra ơn Thuấn
Đã lâm nhuần thiên hạ gội nhơn Nghiêu
Rưới khắp cả muôn dân
Bắc Nam cúi mặt xưng thần
Tứ hải cúi đầu cống lễ
Thưởng trăm họ ghe lòng lớn bé
Vua ta đều tha thuế
Cám muôn dân ruộng khô hư phế
Canh điền vua cũng tha phô
Ba năm dư thẩm xét tù đồ
Lai miễn tử xá sanh nhơn chánh
Ấy ví tề thương hải
Còn những người thất thập tuần dư
Ngoài thời yến diên ban, trong lụa vải cũng ban
Còn những người cô độc, với những kẻ bần hàn
Xuất phủ huyện chẩn bần, chẩn tế
Còn năm hung dịch tễ
Vua ta cũng ban ân
Phát tiền tuất thân mai táng
Ớ các làng xã ơi
Bay ngưỡng mặt theo Tây cho đáng
Nỡ lòng nào phản nghịch cho yên tâm?
Mả Nguỵ Khôi sao hỡi còn lầm?
Bài trung nghĩa, miễu công thần, sao bây không tưởng?
Trên đầu có hai bên hai vác
Làm việc chi trời đất cũng hay
Ngửa xem thần còn ở trên vai
Để biên chép người trong dương thế
Tội nào trọng bằng tội phản quân phế đế
Hình nào to bằng hình đứa gian thần
Tiếc của tiền sao chẳng tiếc thân?
Thân danh trọng, của tiền mấy trọng?
Vua thời dụng thánh đời, người dụng hiền
Dụng là dụng những kẻ tài trí kinh quyền
Dùng những kẻ trung quân ái quốc
Làm tôi con phải đền ngọn rau, tấc đất
Thời mới xong cái nợ tang bồng
Sao bình thời múa mặt xưng hùng
Cơn bác loạn kinh tâm tán loạn?
Ớ các quan viên ơi!
Lũ nào mến, lũ ta xin đừng mến
Bọn nào kinh, bọn mình hỡi chớ kinh
Nguyền gắng sức đền ơn cho quân thượng
Trời đã sanh có binh thời có tướng
Binh tướng phải hết lòng
Trời đã sanh có chúa lại có tôi
Niềm tôi chúa sao cho hết dạ
Khéo chỉ chọ cho mã tà khuấy khoả!
Mưu thày lay ai mượn phá luỹ bờ?
Phận làm tôi chẳng trọn một thờ
Không thương hại lại đam thói bạc!
Miệng niệm liến Quan Âm Bồ Tát
Lòng u ơ tưởng chúa Du De
A men, bát nhã khéo xô bồ
Thập ác, tràng phạn xui lộn lạo!
Nhà nghèo mới biết con rằng thảo
Nước rằng nguy, tôi chúa dạ biết ngay
Nên hư có một hội nầy
Sống thác cho tường mới tận
Hễ phận làm nam tử
Phải trả nợ quân ân
Hễ phận làm con dân
Phải đền ơn thuỷ thổ
Kìa là tông, nọ là tổ
Tông tổ ở đất nào?
Kìa là mẹ, nọ là cha
Cha mẹ đẻ, sao không đánh liệt?
Ớ bọn phản nghịch ơi!
Mình là con trong đất Việt
Chẳng phải người sanh sản giống Tây di
Nó là chi, nó dám tới đây?
Ta là chi, mà làm thinh ngồi vậy?
Ở đâu mà không thấy?
Loài mọi nó bất nhơn!
Tổng Định Thành chùa miễu phá tan hoang
Đồng tập trận mả mổ đào sạch quét!
Sao bây không biết xét?
Khiến dạ vô tình!
Chẳng thương tấm tượng sàng linh
Nở bỏ vùa hương trước án!
Nghĩ giận cho đáng
Hay ghét bỏ cho ưng!
Người ở đời lấy giặc làm hưng
Gầm đầu thú lấy Tây làm mạnh
Khá tua tu tỉnh
Cải ác tùng trung
Rất đỗi man di còn có một lòng
Huống chi ta là người trung quốc mà không gan ruột?
Đồn Bà Quẹo phản hồi chưa bên cuộc
Cũng vì quan, cũng vì quân không dạ cần vương
Lũy Mĩ Quý hoài đao thương
Cũng vì tướng, cũng vì binh không lòng nghĩa khí!
Chữ quân thần là đạo nghĩa
Phận làm nam tử phải trả nợ cho quân vương
Thà là nguyền ra giữa chốn chiến trường
Nhứt là nó, nhứt là ta
Đồng đánh liệt cho Tây di biết mặt!
Gẫm âu thế tình thậm ngặt
Vịnh râu dê làm mặt tài khôn
Tiếc cơm nước vua nuôi các gã
Mồ tổ phụ, cuộc táng chôn
Cho dài cửu họ, cho lớn tông môn
Đặng dương dương theo loài bất nghĩa
Tiếc cơm nước vua nuôi các ngươi
Thân cho dài, hình cho lớn, vóc cho cao
Theo loài Tây giặc, lấn Nam trào
Tám mươi kiếp, những loài vô hậu
Chữ “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”
Câu “Châu nhi phục thể, thiên địa tuần hường”
Bình rồi đây ơn cũng thấy ơn
Trị rồi đây oán thời thấy oán!
Mặt đứa gian thần xem cho hãn
Danh người trung nghĩa thấy cũng tường
Nguyện ngàn năm để tiếng “Cần Vương”
Thề muôn thuở chẳng nhơ danh đất Việt.
(Vè Cần vương)
Thơ Thầy Thông Chánh
Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra
Thơ thầy Thông Chánh
Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra
Chép làm một bổn để mà coi chơi
Trà Vinh nhiều kẻ kỳ tời
Có thầy Thông Chánh thiệt người khôn ngoan
Đêm nằm khô héo lá gan
Nghĩ giận Biện lý không an tấm lòng
Chừng nào tỏ nỗi đục trong
Giết tên Biện lý trong lòng mới thanh
Lang sa làm việc Châu thành
Mười bốn tháng bảy lễ rày Chánh Chung
Chỉ sai đua ngựa rần rần
Trát đòi làng tổng tư bề đến đây
Bốn giờ đua ngựa cát bay
Phủ Hơn, Biện lý đương rày ngồi coi
Có thầy Thông Chánh hẳn hòi
Xách súng nai nịt đi coi châu thành
Phủ Hơn lời mới hỏi rằng
– Do này thầy Chánh đi rình bắn ai
Thầy thông thưa lại cùng ngài
– Tôi bắn Biện lý chớ ai bao giờ
Thầy thông thiệt lẹ như cờ
Bắn quan Biện lý suối vàng mạng vong
Các quan, đua ngựa rần rần
Tưởng đâu trận giặc không hay sự gì
Thầy thông làm việc ngoan ngùy
Bắn rồi trở súng bắn mình, để chi
“Dù ta có sống một khi
Tây cũng hình phạt sống thì nhơ danh”
Phủ Hơn thấy vậy thất thanh
Bắt tay thầy Chánh giựt rày súng đi
Thuốc đạn nạp sẵn một khi
Tức mình súng nổ đạn ria giáp vòng
Trúng nhằm ông Chánh Vĩnh Long
Trúng ngay bắp vế điệu về nhà thương
Các quan thiên hạ chạy tuôn
Đua nhau mà chạy ra đường ngẩn ngơ
Trúng nhằm ông Đốc Cần Thơ
Bây giờ lại trúng Chánh tòa Bạc Liêu
Người Tây bị bệnh cũng nhiều
Cảm thương thầy Chánh chín chiều sầu bi
Khen cho cây súng dị kỳ
An Nam không trúng trúng nhằm người Tây
Các hàng phủ huyện đông vầy
“- Do nào nó oán người Tây chuyện gì?
Trong trại kèn thổi vang vầy
Nhà việc hồi trống vang vầy thôn hương
Vui thay như hội Tầm Dương
Cháo bồi, chè đậu đổ đường sạch trơn
Nước chanh, nước đá chi sờn
Nem bì gỏi rượu sạch trơn chẳng còn
Đi coi lạc vợ mất con
Cũng vì thông Chánh phá rày tiệc chơi
Ngoài thời hàng xén kêu trời
Mất vàng mất chuỗi đếm đàng no nê
Bài cào, bông vụ, số đề
Thùng xà giựt hết chẳng còn bạc xu
Đề lao cai đội canh tù
Việc này lộn xộn nó lưu chẳng còn
Mấy thầy trở lại lầu son
Cảm thương thầy Chánh hao mòn lá gan
Vợ con thầy Chánh đoạn trường
Bây giờ phụ tử hai đường xa nhau
Thầy Thông phát mắng một khi
– Phụ nhơn nan hóa biết gì mà lo
Tội tao dù có của kho
Chuộc làm sao đặng khá lo làm gì
Phủ Bình dời gót chân lui
Tây đem thầy Chánh một hồi khảo tra
– Sao mày dám bắn Lang sa
Mày bắn Biện lý thiệt mày to gan
Thầy thông nổi giận chửi ngang
– Chết tao tao chịu hỏi mà sao ra
Chúa sanh tao đứng người ta
Quân bây ăn cướp con nhà nước Nam
Tao là quân tử chẳng tham
Thông Chánh cắn lưỡi còn chi hỏi hoài
Quan thầy vốn thiệt cao tài
Đổ thuốc vào rượu giao cho Ký Hòa
Bảo thầy Thông Chánh kia là
Uống vào một chén vậy mà giải khuây
Thầy thông không biết không hay
Vị lòng thầy Ký uống vào rụng răng
Thuốc chi hay đã quá chừng
Thầy thông mắc kế rụng răng cả rồi
Ký Hòa xem thấy hỡi ôi
– Nào tôi có rõ khúc nôi sự tình
Tôi đâu nỡ hại trưởng huynh
Xin thầy xét lại sự tình cho tôi
Thầy thông nghe nói ngùi ngùi
– Việc này cũng bởi Tây thời hại ta
Rạng ngày đến bữa thứ ba
Điệu thầy Thông Chánh đi ra Sài Gòn
Cảm thương cùng vợ cùng con
Xin thầy sống thác chẳng còn kể chi
Vợ con lưỡng mục lâm ly
Đi đưa thầy Chánh xót xa đoạn trường
Thông Hồ, Ký Hớn, Ký Hòa
Mấy thầy ở lại lệ sa dầm dề
Ngày nay phân biệt phu thê
Bỗng đâu tàu tới súp lê thổi liền
– “Ngày nay áo lại rẽ bâu
Vợ con bây chớ đau sầu hư thân
Nhan Hồi sự cũng ba mươi
Phải chi Bành Tổ sống đời trăm năm
Thầy thông gan mật nát dầm
Mấy thầy than khóc ướt đầm gối loan
Tàu ra Giồng Tượng, Bãi Xang
Thầy thông nói gạt vậy mà bằng nay
– Chúng bây nghe thửa lời này
Mở còng một chút thầy ra bô tàu
Thầy thông gan dạ như bào
Giả đò đi tiểu té nhào xuống sông
Mình này mắc phải tay còng
Móc sắc nó móc kéo lên bô tàu
Thầy thông ruột thắt gan bào
Liều mình chẳng đặng làm sao bây giờ
Mã tà lớn nhỏ sợ thay
Phải thầy chìm mất bị đày Côn Nôn
Mã tà sợ đã hết hồn
Một lần thầy tiểu biết khôn tới già
Thứ này đến thứ cô Ba
Mới mười bảy tuổi lấy mà chồng Tây
Nghe cha mắc phải nạn này
Cúi đầu xin phép vậy thì quan ba
– Cho tôi đi tới giữa Tòa
Đặng mà tôi thấy mặt cha tôi rày
Quan ba lụy nhỏ chau mày
– Phụ thân tội trọng xin rày đặng đâu
Cô Ba từ giã ngọc lầu
Tay cầm súng sáu miệng hầu kêu xe
Mình mẩy võ nghệ ai dè
Đứng kề lại đó lắng nghe sự tình
Mau chân bước tới châu thành
Tai nghe quan soái xử mà làm sao
Nếu mà xử hiếp cha rày
Ta bắn Ngươn soái phát nay mới đành
Cha ta dù thác bỏ mình
Cũng trong đạo Chúa cầu xin thiên đường
Sống chi ở tại nhơn gian
Phân ly phụ tử hai đàng cách xa
Đem thầy Thông Chánh đến Tòa
Đặng mà Ngươn soái xử tra công đồng
– Làm sao mày quá anh hùng
Dám bắn Biện lý thiệt mày to gan
Thầy thông nổi giận chửi ngang
– Mày còn hỏi nữa còng va lên đầu
Ngươn soái nghe nói lắc đầu
– Thiệt dòng Thông Chánh hỗn hào lắm thay
Nó không kiêng nể đến ai
Giữa Tòa Ngươn soái nó còn dọc ngang
Cô Ba cầm súng nhảy vào
– Hỏi thằng Ngươn soái nhiếc rày dòng ai
Cha ta sanh tử chẳng nài
Chớ phải cha kiếp một loài như bây
Cao nguyên đất rộng trời đầy
Chết thì ta chịu mình này cũng ưng
Ngươn soái bèn mới tỏ phân
– Mã tà bắt nó để mà làm sao
Mã tà phú lích áp vào
Cô Ba bèn đá té nhào sảy tay
-Ta không thù oán chi bây
Để ta đánh với người Tây mới tài
Phủ Hơn nghe lọt vào tai
– Xin cháu bớt giận chớ đừng hung hăng
Khá khen lời bác nói rằng
Nhứt nhơn địch vạn thế thường đặng đâu
Phủ Hơn rình lại nắm đầu
Phủ Bình giựt súng nắm đầu cô Ba
Cả kêu phú lích mã tà
– Đem còng nó lại bỏ ngoài đề lao
Cô Ba lời mới nói vào
– Bác ơi hại cháu làm sao cho đành
Thiệt tôi sợ lỗi trời sanh
Cảm thương thân phụ về thành đế đô
Thầy thông gan héo ruột khô
Bây giờ phụ tử lộ đồ xa nhau
Đem thầy Thông Chánh xuống tàu
Chở ra ngoài Huế nạp rày vua ta
Thánh hoàng ngồi ngự chương tòa
Hỏi thầy Thông Chánh sao mà bắn Tây
Thầy thông đặt gối tâu quỳ
– Muôn ơn thiên tử dân di tỏ tường
Trước sau thần hạ tỏ phân
Cái thằng Biện lý ve rày vợ tôi
Thì thôi tôi cũng bỏ trôi
Vợ chồng tôi mới đổi về Chợ Trong
Sài Gòn làm việc mới xong
Biện lý trở lại nó hòng ve con
Làm cho tôi bỏ Sài Gòn
Quả đồ lục súc vợ con ve đùa
Thôi thôi tôi cũng nhịn thua
Vợ chồng tôi mới trở về Nam Vang
Làm cho tán bại gia cang
Biện lý xin phép Nam Vang đổi về
Làm cho rời rã phu thê
Vợ chồng tôi mới đổi về Trà Vinh
Đặng gần bằng hữu đệ huynh
Biện lý xin phép Trà Vinh đổi về
Từ tôi tạo lập gia tề
Mới đặt thợ mộc làm nhà cho tôi
Làm rồi thì đã khuôn viên
Còn một cái cửa thợ không chịu làm
Thiệt tôi giận nó căm gan
Mắng nhiếc thợ mộc đâm đơn kiện vào
Biện lý xử thất một khi
Bênh vực thợ mộc bỏ tôi ngày rày
Tôi ra làm việc cho Tây
Làm việc nhà nước, ai mà cũng thương
Ngày nay phân nỗi tỏ tường
Không nghe, chống án lên rày Tòa trên
Năm nay thời vận không hên
Ngươn soái y án một lời như ghi
Nên tôi những luống sầu bi
Xin vua đừng xử để mà mặc tôi
Đức vua nghe nói thêm thương
Thiệt thầy Thông Chánh là người trung cang
– Bây giờ để trẫm liệu toan
Xin dùm thầy Chánh vậy mà kẻo oan
– Cúi đầu tâu vọng thánh hoàng
Xin vua an nghỉ nghị ngơi chương tòa
Việc này là việc Lang sa
Giết tha mặc nó vua xin làm gì
Làm vua chánh trị trào nghi
Đi chiều lòng nó vậy mà thất danh
Thương thầy Thông Chánh hùng anh
Ngày sau hậu thế lưu danh muôn đời
Đem thầy Thông Chánh về Tây
Cho mẹ Biện lý xử mà làm sao
Mụ đầm nổi giận lôi đình
– Thông Chánh dám giết con tao bỏ mình
Thông Chánh nổi giận lôi đình
– Mẹ nào con nấy một dòng chẳng sai
Con mụ vốn thiệt quá tay
Ta đâu theo đó nói sai bao giờ
Tử sanh như máy thiên cơ
Không biết mụ giận vậy là làm sao
Đem thầy Thông Chánh xuống tàu
Trở về công sở mau mau xử hình
Tàu về mới tới Trà Vinh
Vợ con bằng hữu đệ huynh đều mừng
Thầy thông nước mắt rưng rưng
“Trở về chịu chết mà mừng làm chi”
Quan trên mới phán một khi
Mười bảy tháng sáu xử hình thầy thông
Truyền ra lục tỉnh giáp vòng
Đi coi Thông Chánh đứng nên anh hùng
Càng Long, Ất Ếch, Trà Vinh
Ba Xuyên, Rạch Giá, cũng đi đùng đùng
Bắc Trang, Trà Cú, Gò Công
Sài Gòn, Tân Lạc, cả ngàn muôn dân
Thiên hạ đông đảo quá đông
Bến Tre cũng đến, Mỏ Cày cũng sang
Người ta ăn uống muôn ngàn
Bây giờ thầy Chánh hội này trả ơn
Phủ Hơn lời mới tỏ bày
– Nghe đâu lính tới tịch biên gia tài
Bà Phủ lời mới chỉ bày
– Vàng vòng tom góp lại thì một ô
Chạy ra rồi lại chạy vô
Tới chùa mà gởi cho thày lục Nghiêm
Gởi rồi trở lại gia đường
Phút đâu lính tới nó biên gia tài…
Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương
Ân sai hăm tám tướng cường ngũ nhung
Xâm cương cậy thế khỏe hùng
Kéo sang đóng chặt một vùng Vũ Ninh
Trời cho thánh tướng giáng sinh
Giáng về Phù Đổng ẩn hình ai hay
Mới lên ba tuổi thơ ngây
Thấy vua cầu tướng ngày rày ra quân
Gọi sứ phán bảo ân cần
Gươm vàng, ngựa sắt đề quân tức thì
Thánh vương khi ấy ra uy
Nửa ngày sấm sét, tứ bề giặc tan
Áo thiêng gửi lại Linh san
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên
Miếu đền còn dấu cố viên
Sử xanh, bia đá tiếng truyền tự xưa (Vè Thánh Gióng)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè bài tới
Cơm chưa kịp bới
Trầu chưa kịp têm
Đi đánh một đêm
Thua ba tiền rưỡi
Chồng đánh chồng chửi
Giả đò đau máu
Ăn sáu bát cơm
Chồng đơm không lập
Ăn cặp bồ câu,
Ăn đầu cá nhám
Ăn đám khoai lang
Ăn ba thúng đậu
Ăn chậu sương sa
Ăn đường Đồng Nai
Ăn ba trăm bưởi
Ăn bảy trăm dừa
Chồng đã biểu chừa
Còn đòi ăn nữa
Ăn lòi tấm ruột
Ăn tuột về nhà
(Vè bài tới)