Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời (10)
Thằng Tây nó giăng dây thép giữa trời làm chi?
- Tây giăng dây thép giữa trời,
Chờ anh có việc trao lời em hay
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những gian cùng nứa lấy ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng
Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón đấu vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hỏa mai,
Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền,
Thùng thùng trống đánh ngũ liên,
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Giữa năm Đinh Dậu mới rồi
Sư Ông Chùa Lãng là người đảm đang
Viết tờ quyên giáo các làng
Lãng Đông, Năng Nhượng chuyển sang Trực Tầm
Chiều hôm còn ở Đòng Sâm
Rạng mai Đắc Chúng, tối tầm Dọ Dương
Cùng với nghĩa sĩ bốn phương
Phất cờ Thần Tướng mở đường Thiên Binh
Phá dinh công sứ Thái Bình
Sa cơ ông đã bỏ mình vì dân
Ở đâu năm cửa, nàng ơi ! (Hỏi)
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?
Sông nào bên đục bên trong ?
Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh ?
Ðền nào thiêng nhất tỉnh Thanh ?
Ở đâu lại có cái thành tiên xây ?
Ở đâu là chín từng mây ?
Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng ?
Chùa nào mà lại có hang ?
Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không ?
Ai mà xin lấy túi đồng ?
Ở đâu lại có con sông Ngân-Hà ?
Nước nào dệt gấm thêu hoa ?
Ai mà sinh ra cửa, ra nhà, nàng ơi ?
Kìa ai đội đá vá trời ?
Kìa ai trợ thuỷ cho đời được yên ?
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời,
Xin em giảng rõ từng nơi từng người
- Thành Hà-nội năm cửa, chàng ơi !
Sông Lục-đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng.
Nước sông Thương bên đục bên trong,
Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.
Ðền Sòng thiêng nhất tỉnh Thanh,
Ở trên tỉnh Lạng, có thành tiên xây.
Trên trời có chín từng mây,
Dưới sông lắm nước, núi nay lắm vàng.
Chùa Hương-tích mà lại ở hang ;
Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết không ?
Ông Nguyễn Minh-Không xin được túi đồng,
Trên trời lại có con sông Ngân-hà.
Nước Tàu dệt gấm thêu hoa;
Ông Hữu-Sào sinh ra cửa, ra nhà, chàng ơi !
Bà Nữ-Oa đội đá vá trời ;
Vua Ðại-Vũ trị thủy cho đời yên vui.
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời,
Em xin giảng rõ từng nơi từng người.
Cậu lính là cậu lính ơi
Tôi thương cậu lắm nắng nôi thương hàn
Lính này, có vua có quan
Nào ai bắt lính cho chàng phải đi
Trời ơi sinh giặc mà chi
Nay trẫy kim thì mai trẫy kim ngân
Lấy nhau chưa kịp ái ân
Chưa xe kim chỉ Tấn Tần như xưa
Trầu lộc em phong lá dừa
Chàng trẩy mười bốn em đưa hôm rằm
Rủ nhau ra chợ Quỳnh Lâm
Vai đỡ gánh nặng hỏi thăm tin chồng
Xót xa như muối bóp lòng
Nửa muốn theo chồng nửa bận con thơ
Thùng thùng trống đánh quân sang
Chợ Già trước mặt, quán Nam bên đàng
Qua Chiêng thì sẽ sang Giàng
Qua quán Ðông Thổ vào làng Ðình Hương
Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà thương mẹ già
Phi đế phi bá
Quyền khuynh thiên hạ
Nhị bách dư niên
Tiêu tường khởi vạ
(Chẳng đế, chẳng bá
Quyền khuynh thiên hạ
Hơn hai trăm năm
Trong nhà dấy vạ)
(Lịch sử)
Lịch Sử,Phương Ngữ,Quê Hương, Đất Nước, Quân Sự, Núi Non
Ba đồn ở đất Châu Ô
Một đoàn vợ lính trãy vô thăm chồng
Gặp trộ mưa giông, Đàng trơn gánh nặng
Mặt trời đã lặn, Ðèo Ngang chưa trèo
Khớp hòn đá cheo leo, Chân trèo chân trợt
Gặp o gánh ló, Chộ chú chăn tâu
Ba Ðồn quan lính ở mô ?
Non xanh nước biếc hữu tình
Lúa đồng bát ngát rung rinh bốn mùa
Đền lăng thờ Đức vua Lê
Ngắm nhìn núi Côi khác chi con rồng
Vờn thêm một dải uốn cong
Kìa con thiên mã đang lồng về Nam
Một dòng nước nhỏ xanh lam
Một ngôi chùa nhỏ nằm ngang lưng đồi
Chẻ tre đan nón
Ta lí khăn xanh
Đánh giặc vùng Thanh
Những khe cùng núi
Những suối cùng đèo
Cách sông cũng lội
Cách núi cũng trèo
Phận lính thì nghèo
Tiền lương gạo hết
Người ngoan ở nhà
Có thấu cho chăng?
Tre già để mặc cho măng.
Năm tiền một quả đậu xanh
Một cân đường cát đưa anh xuống tàu
lại nguyệt hoa
Tàu về có thuở tàu qua
Xin em ở lại nguyệt hoa thì đừng.
Xin em ở lại nguyệt hoa thì đừng.
Sông Nha Trang cát vàng, nước lục,
Thảnh thơi con cá đục lội dọc lội ngang.
Đã nguyên cùng nhau hai chữ đá vàng,
Quý chi tách cà phê đen, ly sữa bò trắng
Anh nở phụ phàng nước non.
Triều đình còn chuộng thi thư
Khuyên anh đèn sách sớm trưa học hành.
May nhờ phận có công danh
Mà anh phú quý, ấy mình vẻ vang
Khuyên đừng trai gái loang toàng
Khuyên đừng chè rượu nữa mang tiếng người.
Cũng đừng cờ bạc đua chơi
Sao cho sự nghiệp ra người trượng phu.
Làm sao nên tiếng danh nho
Thần trung, tử hiếu để cho vang lừng!
Ai về nhắn với bà cai
Giã gạo cho trắng, đến mai dâu về
Dâu về dâu chẳng về không
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng đi sau
Ngựa ô đi tới vườn cau
Ngựa hồng chậm rãi đi sau vườn dừa.
Ai qua Đèo Cả nhớ chăng
Núi cao,biển rộng,mây giăng mịt mù
Dân nghèo đục đá làm phu
Tấm thân đổi lấy mười lăm xu mỗi ngày
Đá lăn hầm sập tan thây
Cuộc đời nô lệ tháng ngày tối tăm
Ai ơi! đi lính cho Tây
Con dại cả bầy bỏ lại ai nuôi?
Chuyện đâu có chuyện lạ đời
Quan đi theo giặc bắt người lành ngay
Nghìn năm nhớ mãi nhục này
Theo Tây được thả, đánh Tây bị tù. (*)
Nhờ ai cho gà đỏ đuôi
Nhờ ai mà được cưỡi voi, ngồi thuyền
Nhờ ai có bạc, có tiền
Nhờ ai mà có nàng tiên đứng hầu
Nhờ ai có ruộng, có trâu
Nhờ ai mà có mâm thau, đũa ngà
Nhờ ai có lụa, có là
Vợ gọi bằng bà, con gọi cậu, cô
Đến khi giặc Pháp tràn vô
Quan nhỏ tếch mất, quan to chạy dài
Ai ơi, có thế chăng ai?
Ở bên ni Hàn ngó qua bên tê Hà Thân
Nước xanh như tàu lá
Ở bên tê Hà Thân ngó qua bên ni Hàn
Thấy phố xá nghênh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn
Đào sông Câu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu
Dặn tấm lòng ai dỗ đừng xiêu
Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau.
Anh đi súng ở tay ai
Sao không quay lại bắn loài thù chung
Anh xem bao kẻ anh hùng
Kìa ông đội Cấn đội Công thuở nào
Hô quân ra cứu đồng bào
Súng Tây ông lại bắn vào đầu Tây
Tiếng tăm lừng lẫy đó đây
Sử xanh ghi mãi những ngày vẻ vang
Anh ơi duyên phận lỡ làng
Xin anh để tiếng phi thường cho em
Ước gì kẻ lạ người quen
Gần xa nhắc đến chồng em anh hùng
Thu đông lệ nhỏ đôi dòng
Anh đi em ngỏ tấm lòng cùng anh
Hoàng triều Bảo Đại tứ niên
Đã ba cái lụt, lại liền cái keo (sâu keo)
Xã dân đâu đấy túng nghèo
Cho lên ngũ tỉnh phải theo đồn điền
Ông Tây lắm bạc, nhiều tiền
Bỏ ra sức giấy mộ liền cu ly.
Có chàng Công Tráng họ Đinh
Dựng lũy Ba Ðình chống đánh giặc Tây
Cơ mưu dũng lược ai tày
Chẳng quản đêm ngày vì nước lo toan
Dù cho vận nước chẳng còn
Danh nghĩa vẹn toàn, muôn thuở không phai
Này em nay nước Pháp gặp cơn binh biến
Lệnh truyền về khắp phủ huyện xã thôn
Trai từ mười tám tuổi đến bốn lăm
Đều phải tòng quân nhập ngũ đặng sang Pháp đình
Cùng người Pháp hiệp binh đánh Đức
Bình định xong ca khúc khải hoàn
Sống thời quyền tước gia ban
Rủi ro có tử trận thì được hưởng bảng vàng lưu danh
Nếu ai trốn tránh hay cố tình chống đối
Nặng thì án tử hình nhẹ thì khép tội tù đày
Thời thế bây giờ những kẻ làm trai
Nơi cây cao gặp bão táp không biết day phương nào
Không đi thì tù tội buộc vào
Đi thì bỏ quê hương làng nước làm sao cho đành
Hơn nữa cảnh nhà mình nghèo túng tội tình
Thêm cha mẹ già con dại không lẽ để một mình em lo
Nên anh mãi đắn đo suy nghĩ
Đạo vợ chồng nhờ em góp ý luận bàn
Làm sao cho vẹn cả đôi đàng
Đi cũng yên tâm ở lại cũng vô sự được hoàn toàn hỡi em.
Càng ngày sưu thuế càng cao
Mất mùa nên phải lao đao nhọc nhằn
Xóm làng nhẫn chịu cắn răng
Bán đìa nộp thuế cho bằng lòng quan trên
Quan trên ơi hỡi quan trên
Hiếp dân ăn chặn chỉ biết tiền mà thôi.
Nhất gạo nhì rau
Tam dầu tứ muối
Thịt thì đuôi đuối
Cá biển mất mùa
Đậu phụ chua chua
Nước chấm nhạt thếch
Mì chính có đếch
Vải sợi chưa về
Săm lốp thiếu ghê
Cái gì cũng thiếu
(Vè thời Bao Cấp)
Anh ra đi đi lính cho làng
Thượng văn hạ võ làm quan triều đình
Ra đi có tướng có binh
Lên lưng con tuấn mã ra kinh một hồi
Phò vua một dạ trên ngôi
Em tưởng anh có ngãi em ngồi em trông
Hay đâu anh bạc ngãi vong ân
Liệng ra biển Bắc trôi lần biển Đông
Bấy lâu tưởng ngãi vợ chồng
Hay đâu tát nước biển Đông một mình.
Người ta mộ lính tòng chinh
Sao anh không suy nghĩ lại tự mình ra đi
Nước người ta giặc giã loạn ly
Anh đem thân đi đỡ đạn kẻ khi người cười
Rủi bỏ xương ở đất nước người
Để mẹ cha con vợ suốt đời đơn côi.
Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương
Ân sai hăm tám tướng cường ngũ nhung
Xâm cương cậy thế khỏe hùng
Kéo sang đóng chặt một vùng Vũ Ninh
Trời cho thánh tướng giáng sinh
Giáng về Phù Đổng ẩn hình ai hay
Mới lên ba tuổi thơ ngây
Thấy vua cầu tướng ngày rày ra quân
Gọi sứ phán bảo ân cần
Gươm vàng, ngựa sắt đề quân tức thì
Thánh vương khi ấy ra uy
Nửa ngày sấm sét, tứ bề giặc tan
Áo thiêng gửi lại Linh san
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên
Miếu đền còn dấu cố viên
Sử xanh, bia đá tiếng truyền tự xưa (Vè Thánh Gióng)