|
-
Hương Hoa Đất Nước - Trọng Toàn (Trang 2)
-
-
2. Người có tiền thì đi cáng, thứ võng
có mui, có đòn, hai người “phu cáng" khiêng đi. Một cung trạm độ chừng
hai chục cây số. Đi hết khoảng đường thì đổi cho người khác, và trở về.
-
-
Có câu tục ngữ:
-
Mua quan tám bán quan tư
-
Lạy Tiên sư lời tư tiền.
-
-
Và; người tưởng là lỗ, nhưng câu ấy là
câu nói thiệt thà, người bán vẫn lời. Thí dụ, tôi lãnh một mối quan tám,
nhưng tôi không khiêng, tôi nằm nhà, bán mối cho kẻ khác một quan tư, rõ
là lời vậy
-
-
3. Đờn bà phần nhiều đều biết cỡi ngựa.
Hình như đời Thành Thái, các bà phi, các cung nữ đều cỡi ngựa được hết,
và lại cỡi tài tình nữa.
-
-
4. Sông, suối hình như ít bắc cầu; đò
ngang chỉ chở hành khách mà không chở được xe ngựa.
-
-
Biên vài câu hát về sự giao thông:
-
Đò ngang:
-
Ví dầu tình chẳng yên đang,
-
Xin đưa thiếp xuống
đò ngang thiếp về.
-
-
- Ngựa:
-
Chiều chiều mượn ngựa ông
Đô,
-
Mượn ba chú lính, đưa cô tôi về.
-
(Câu hát lưu hành ở Sông Cầu, Phú Yên)
-
-
- Võng:
-
Có võng mà chẳng có đòn,
-
Có chồng mà chẳng
có con mà bồng.
-
-
Vài thứ cây cỏ:
-
- Bồ hòn:
-
Có con phải khổ vì con,
-
Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay.
-
-
- Nhãn lồng:
-
Nhãn lồng trong bọc ngoài
bao,
-
Chim còn ăn đặng, huống đào
rụng rơi.
-
-
- Ớt:
-
Ớt
nào là ớt chẳng cay,
-
(Vế sau, các độc giả đều dư biết, tôi
khỏi biên ra)
-
-
V PHONG TỤC
-
-
Đánh cờ vây
-
Có câu hát nói về cờ vây:
-
Nẫu về nẫu ở chưa xong,
-
Bối rối trong lòng như đánh cờ vây.
-
-
Truyện Kiếu có câu:
-
Khi hương sớm, lúc trà trưa,
-
Bàn vây điểm nước đường tơ hòa đờn.
-
-
Thơ Hà Tiên thập vịnh có câu:
-
Đã giăng chữ nhứt dài trăm trượng,
-
Lại xếp bàn vây trắng mấy non.
-
-
Câu sau này nói về đàn cò trắng, khi
liệng trên không khi đậu trên núi Đá Dựng, cách tỉnh thành Hà tiên lối
năm cây số ngàn.
-
-
Mấy câu trên đây đều nói về cờ vây. Theo
lời ông Nghè Cúc Nông Trương Gia Mô đã qua chơi ở Hà Tiên và tự tử ở
Châu Đốc năm 1929 (?) thì ở Huế hay đánh cờ vây. Hai người cầm hai nắm
vỏ ốc, sắp ra như hai phòng tuyến; phòng tuyến này có thể đánh bứt
ngang, đánh gãy phòng tuyến kia. Ông gọi là một thứ cờ nhơn đạo", không
bao giờ ăn được tất cả quân cờ bên đối phương.
-
-
Vạ làng
-
Hình như khi làng bắt vạ, thì dân phải
đóng tiền. Vạ trâu là nặng nhất.
-
Tánh quen hoa nguyệt chừa chẳng
được đâu
-
Lệ làng, làng bắt mấy trâu mặc làng.
-
-
Chia của cải cho con gái
-
Một con trai cũng kể là có;
-
mười con gái
cũng kể là không.
-
-
Hình như đối với con gái, cha mẹ chia tiền của rất ít
:
-
Sao ba đã đứng ngang đầu,
-
Em còn ở mãi làm giàu cho cha.
-
Giàu thì chia bảy chia ba
-
Phận em là gái được là bao nhiêu.
-
-
Quần
áo
-
Đờn bà con gái "nhà quê" mặc áo vá
quàng, áo nữ, yếm hoa tằm. Đờn
ông bịt khăn xéo; xin các bạn nhớ lại mấy người kép hát bội, đờn thổi,
học trò lễ vài mươi năm về trước.
-
-
Áo vá quàng:
-
Thương em thuở áo mới may,
-
Bây giờ áo đã thay tay vá quàng.
-
-
Áo nữ, quần tía:
-
Đi đâu mà chẳng thấy về,
-
Hay là quần tía dựa kề áo nâu.
-
-
Yếm hoa tằm:
-
Cô kia mặc yếm hoa tằm,
-
Chồng cô đi lính, cô nằm với ai
-
-
Khăn xéo:
-
Ra về không lẽ về luôn,
-
Để khăn xéo lại, lệ tuôn
em chùi.
-
Nói về trầu cau
-
Trên khay trầu, trên ô trầu, có con dao
cau.
-
-
Dao cau:
-
Cổ tay em trắng như ngà,
-
Con mắt em liếc như là dao cau.
-
-
Têm trầu:
-
Vào vườn hái quả cau xanh,
-
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu;
-
Trầu này têm những vôi tàu,
-
Giữa thêm cát cánh, hai đầu quế cay.
-
-
Mâm trầu trong lễ hỏi, lễ cưới:
-
Cho anh thột miếng trầu vàng,
-
Mai sau trả lại cho nàng
đôi mâm.
-
Trầu được dùng ở Việt Nam:
-
-
Bắc Việt:
-
Ra đi mẹ có dặn rằng,
-
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
-
(Ở miền Nam dùng chữ "người ta" không
dùng chữ "người") Trung Việt:
-
-
Số em là số ở hầu,
-
Ăn cau vòng nguyệt, ăn trầu kiếng dơi.
-
(Câu này lưu hành ở Huế, mà tại Huế có
lẽ nhiều quan hơn các nơi Nam Việt:
-
-
Tới đây, chiếu trải trầu mời,
-
Can chi mà đứng giữa trời sương sa.
-
-
Đám ma
-
Dân Việt Nam quá thương người chết, cho
mặc quần áo thiệt tốt (đem theo vòng vàng, gấm vóc v.v... Đổ thông, đổ
chai trong hàng, là ước ao thi thể khỏi mục rã. Việc này đúng lý hay vô
lý, tôi không thể nói được. Nhưng đã có người phản đối:
-
Thế gian còn dại chưa
khôn.
-
Sống mặc áo rách, thác chôn áo lành.
-
-
Thế nào là một người đẹp
-
-
Người đẹp là người má phấn, răng đen,
chân mày vòng nguyệt. Người đeo hoa tai, tóc để dài, bới cánh liên hay
bỏ đuôi gà.
-
-
Má phấn:
-
Ngày ngày hai bữa cơm đèn,
-
Còn gì má phấn răng đen hỡi chàng.
-
-
Mày vòng nguyệt:
-
Chân mày vòng nguyệt có duyên
-
Tóc mây dợn sóng đẹp duyên tơ hồng.
-
-
Hoa tai:
-
Tai nghe lịnh cấm hoa tai,
-
Em đeo hoa lý, hoa lài cũng xinh.
-
-
Tóc đuôi gà:
-
Chị kia bới tóc đuôi gà,
-
Nắm đuôi chị lại hỏi nhà chị đâu...
-
-
Tóc bới cánh tiên:
-
Chị kia bới tóc cánh tiên,
-
Chồng chị đi cưới một thiên cá mòi...
-
-
Có khi lại cài hoa lý ở trên đầu tóc.
Hoa lý cài cách nào, tôi chưa được thấy ở Nam Việt, nhưng được thấy ở
Trung Việt. Tại Huế, xóm Đông Ba, Gia Hội, lối năm 1907, mỗi chiều thấy
bán hoa lý, hoa lài xỏ chỉ từng xâu như sợi dây chuyền; các con gái mua
về đeo vào cổ hay là máng theo đầu tóc.
-
-
Tóc em
dài,
-
Em cài hoa lý,
-
Miệng em cười có ý anh thương.
-
-
Đám
cưới - Tuổi lấy chồng.
-
-
Nguyệt Nga, Thúy Kiều đều đã đến tuổi
cặp kê; ả "bán chiếu gon” ở Tây Hồ đã đến tuổi "trăng tròn lẻ"; cả ba
người đều chưa lấy chồng. Thế mà ở Việt Nam lại có nàng dâu tuổi mười
ba, thì quá sớm. Không khéo mà có thể xảy ra sự suy nhược nòi giống như
ở Ấn Độ chăng?
-
-
Gái mười ba:
-
Tiếc thay con gái mười ba,
-
Liều thân mà lấy ông già sao đang.
-
-
Làm mai là một công việc khó khăn, có
nhiều trách nhiệm.
-
Làm mai:
-
-
Trong đời có bốn chuyện ngu:
-
Làm mai, lãnh nợ, gác cu cầm châu.
-
-
Tôi còn nhớ đám cưới chị tôi. Vào ngày
nhóm họ, tiệc chiều vừa xong, sắp đến giờ con gái lạy cha mẹ, cô bác.
Mẹ tôi vui vui và đọc câu:
-
Xưa kia ai biết ai đâu.
-
Bởi chim ô thước bắc cầu sông Ngân.
-
-
một câu hát già dặn vế âm thanh và ý
nghĩa, một câu hát có lẽ chi lưu hành ở Trung Việt, một câu hát đã khiến
bao trái tim non rung động bồi hồi.
-
-
VI DÂN SINH
-
Đèn lửa
-
Ở
xã hội âu Mỹ, muốn nấu ăn, nướng bánh
mì, bánh hộp, có thể dùng nhiều thứ lửa: lửa than củi, lửa than đá, lửa
hơi (gaz), lửa điện. ở thôn quê Việt Nam cũng như ở Trung Hoa, lắm khi
chụm bập dừa, chà gai, vỏ mía, rơm. Các bạn hẳn còn nhớ lửa rơm để nấu
cơm, để nướng bánh phồng, nướng cá lóc (trui), thui chim.
-
-
Tiếc thay hột gạo trắng ngần,
-
Đã
vo nước đục lại vần than rơm.
-
-
Đèn lưu ly đốt tim bức, treo trên
trang; đèn chai dùng đi đường hay soi nhái.
-
Đèn:
-
Dầu hao tim bức
khôn cầm,
-
Xa xuôi chi đó mà lầm lấy
nhau.
-
- Dầu mà cha mẹ không ưng,
-
Đèn chai nhỏ nhựa em cùng lăn vô.
-
-
Nhà
ở
-
Ở Âu Mỹ, có nhiều nhà "chọc trời", được
vài mươi từng lầu. Ở Việt Nam xưa, sang nhất là nhà lim.
-
Ba gian nhà rạ lòa xòa.
-
Phải duyên coi tựa chín tòa nhà lim.
-
-
Người nghèo ở nhà rạ, nhà tranh, nhà lá.
Khi cất nhà, kẻ "trao lá,,, người chẻ lạt, người dừng vách, dừng phên.
Cót hàng ba, có gắn đôi liễn đỏ. Bên hông nhà, chừa cái lỗ chó chun ra
chun vô.
-
-
Liễn đỏ:
-
Ngó vô nhà nhỏ,
-
Thấy đôi liễn đỏ,
-
Có bổn chữ vàng.
-
Thạnh suy anh chưa biết, thấy nàng vội
thương.
-
-
Lợp nhà:
-
Chiều chiều con quạ lợp nhà.
-
Con cu chẻ lạt, con gà dừng phên.
-
-
Lỗ không:
-
Chó
đâu có sủa lỗ không,
-
Chẳng cha ăn trộm cũng ông ăn mày.
-
-
Sự ăn
uống
-
Ta đã lần lượt xem qua lãnh thổ, lịch
sử, phong tục, nhà ở của dân Việt. Ta chỉ còn xét hai vấn đề trọng đại
nhất trong dân sanh, là sự ăn uống và công việc làm. ở âu Mỹ, hình như
cái ăn đã theo nhiều nguyên tắc khoa học. Nhiều lực sĩ Pin/ande chỉ ăn
cá, cá thịt, có rượu. Dân Ho/1anđe ăn nhiều bơ, sữa. Vài dân khác ăn
thịt bò, bột mì, chocq/at, v.v... Năm nào cũng tìm tòi, khảo cứu mãi về thức ăn.
-
-
Ở Việt Nam xưa, hình như có gì ăn nấy,
quí hồ được no bụng thôi. Họa hoằn, mới có rượu nồng dê béo, xôi
đậu thịt quay. Thường ngày, thì cơm cá, rau khoai, mắm đồng, khô lóc.
-
-
Rau:
-
Má
ơi, đừng đánh con đau,
-
Để con bắt
ốc hái rau mà nhờ.
-
-
Gà:
-
Thoạt tiên, thua
ba tiền gà
-
Tiền rưỡi gạo nếp với
ba đồng trầu...
-
-
Hột gà:
-
Đố ai biết món chi ngon,
-
Gà lộn trái vải, cu con ra ràng.
-
-
Tôm càng:
-
Tôm càng lột vỏ để đuôi,
-
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.
-
-
Vài thứ bánh trái:
-
Cam sành chê đắng chê
hôi,
-
Hồng rim chê
lạt, cháo bồi khen ngon.
-
- Muốn ăn bánh ít lá gai,
-
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi.
-
-
Ruộng sâu:
-
Ai ai cũng ham ruộng
sâu,
-
Muốn giàu trâu cái, ruộng sâu thì
giàu.
-
-
Cách làm ruộng:
-
Ra đi anh có dặn dò,
-
Ruộng sâu cày trước, ruộng
gò cày sau.
-
-
Cả nhà đều đi làm ruộng:
-
Bao giờ cho đến tháng hai,
-
Con gái làm cỏ, con trai bê bờ.
-
Trên giếng cạn, dưới đồng sâu,
-
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
-
-
Gặt lúa, đem cơm cho công gặt:
-
Trời mưa cho lúa chín vàng,
-
Cho anh đi gặt, cho nàng đem cơm
-
-
Nước, xách nước, gánh nước:
-
Ở nhiều xứ, nhiều thành phố, đã áp dụng
khoa học thực hành, thì việc xách nước không phải là vấn đề nữa. Còn ở
làng xóm Việt Nam xưa (và... nay), đó là một công việc nặng nhọc.
-
Xa sông, xách nước bằng chình,
-
Sẩy tay rớt
xuống, gẫm mình vô duyên.
-
-
Câu cá:
-
Cha chài, mẹ lưới, con câu.
-
Chàng rể đóng đáy, con dâu ngồi nò.
-
-
Thế thì, cả nhà đều đánh cá, cũng như
trên kia ta vừa thấy cả nhà đều làm ruộng. Kết quả tốt hay xấu? Tôi
không biết chi về kinh tế học, không dám nói quyết một bề nào. Tôi chỉ
thấy rằng, thuở đó cái dây liên lạc gia đình còn cố kết bền chặt lắm.
Ngày nay đã khác hẳn rồi: cái cảnh tượng tan rã đại gia đình Việt Nam
hơi giống một vài gia đình Hiệp Chủng Quốc.
-
Thí dụ: Mẹ làm điều dưỡng ở Sài Gòn, cha
làm quan tàu chạy đường Bangkok, con trai lớn làm 'hỏa xa" ở Tourane, con trai kế làm sở vô tuyến ở Kasmoul, v.v... ở Việt
Nam, ngoài nghề làm ruộng, câu cá, còn
các nghề tằm tang, nuôi heo, buôn bán...
-
-
Tằm tang:
-
Sáng trăng trải chiếu hai hàng.
-
.Bên anh đọc sách. bên nang
quay tơ.
-
-
Nuôi heo:
-
Đêm đêm, gọi những: bớ Hai
-
Trở dậy nấu cám, thái khoai, băm béo.
-
-
Buôn bán:
-
Ở nhà thì sợ cái nghèo,
-
Ra đi thì sợ cái đèo Cù Mông.
-
-
Các bạn đều biết cái đòn bàng tre, hay
cây đòn xóc bằng cau. Văn hào nước Anh, Somerset Maugham đã lên án cái
đòn gánh, nó dè nặng trên vai người đờn ông Trung Hoa: trừ hai ngàn năm
nay trên vai người phu gánh hết cả sự đau thương của Trung Hoa
-
Ở Việt Nam, chúng ta lại thấy đòn gánh
đè nặng trên vai đờn ông, đờn bà và con trẻ nữa. Ở chợ, ở đồng, biết bao
nhiêu người gánh mạ, gánh lúa, gánh cháo, gánh chè “dầm sương phản mại”:
-
Ba
đời bảy họ nhà tre,
-
Hễ cất lấy gánh,
nó đè lên vai.
-
-
KẾT LUẬN
-
Một lời thưa lại
-
-
Tôi đã lạc qua con đường xã hội, kinh
tế. Tôi lật đật trở về với các bạn dây: Tôi đã đem trình, không phải một
thành công mà là một cố thăng. Tôi muốn gieo đức tin vào lòng các bạn.
Các bạn đầu còn xanh, tuổi còn trẻ. Các bạn sẽ nhiều cố gắng, sẽ nhiều
thành công. Tôi tin “hương hoa đất nước” sẽ nhờ các bạn mà trường tồn
bất diệt.
-
-
Trong mười năm, trăm năm, trong muôn
ngàn năm, ở nơi lều tranh vách đất, lúc nào ta cũng vẳng nghe chị đưa
em:
-
Em tôi khát sữa bú tay,
-
Ai cho bú thép ngày rày mang ơn.
-
và lúc nào cũng vắng nghe mẹ ru con:
-
-
Lòng
ta, ta đã chắc rồi,
-
Nào ai giục đứng giục ngồi mà nao!
-
-
Tân An, năm Ký Sửu
-
Depuis deux mille ans. le coolie porte
sur ses épaules la souffrance de la Chine
-
' Selection du Reader's Digest - Juin
1947’
-
-
Chương 1
-
Tuổi Trẻ
-
-
Ai đem con sáo qua sông,
-
Cho nên con sáo sổ lồng bay xa.
-
-
- Ai đem con kéc vô vườn,
-
Cho nên con kéc ăn buồng chuối tiêu.
-
-
Ai đưa em đến chốn này,
-
Bên kia thì núi, bên này thì sông.
-
-
Ai mua con quạ bán cho,
-
Đen lông đen cánh, bộ giò cũng đen.
-
-
Anh mong gởi cá cho chim,
-
Chim bay ngàn dặm cá chìm biển đông.
-
-
- Áo đen năm núi con rồng,
-
ở xa con phụng lại gần con qui.
-
-
- Ba phen quạ nói với diều,
-
Vườn hoang cỏ rậm thì nhiều gà con.
-
Bát ăn cơm (câu đố)
-
-
Cha mẹ sanh ra tuổi đà nên tám,
-
Ở cùng người chẳng dám than van.
-
Cơm ngày ba bữa nhộn nhàng,
-
Biết bao giờ được lai hoàn cựu đô?
-
-
Bắc thang lên đến tận trời (mây?)
-
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời.
-
Cuội nghe thấy nói Cuội cười,
-
Bởi hay nói dối nên ngồi ấp cây.
-
-
10.
-
Bắt con ô thước đội cầu,
-
Cho bà Thánh Mẫu đì chầu thượng thiên.
-
-
Bồng em đi dạo vườn cà,
-
Trái non chấm mắm, trái già làm dưa.
-
-
Bụi cỏ lau khô sầu ai dã dượi,
-
Thỏ núp lùm này chờ đợi bóng trăng.
-
-
Cá (vè các loại cá)
-
-
No lòng phỉ dạ là con cá cơm,
-
Không ướp mà thơm là con cá ngát.
-
Liệng bay thấp thoáng là con cá chim,
-
Hụt cẳng chết chìm là con cá đuối,
-
Lớn năm nhiều tuổi là cá bạc đầu,
-
Đủ chữ xứng câu là con cá
đối,
-
Nở mai tàn tối là cá vá hai,
-
Trắng muốt bẹo da là cá út thịt,
-
Dài lưng hẹp kích là cá lòng tong,
-
ố m yếu hình dong là con cá nhái,
-
Thiệt như lời vái là con cá linh.
-
-
Cái bóng đi chợ cầu Canh,
-
Cái tôm đì trước củ hành đi sau,
-
Con cua lệch đệch đi hầu,
-
Cái chày rơi xuống vỡ đầu con cua.
-
-
15.
-
Cái trai mày há miệng ra,
-
Cái cò nó mổ muốn tha thịt mày.
-
Cái cò mày mổ cái trai,
-
Cái trai quặp lại muốn nhai thịt cò.
-
-
Chị xuân đi chợ mùa hè,
-
Mua cá thu về chợ hãy còn đông,
-
Chị Hươu đi chợ Đồng Nai,
-
Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt Bò.
-
-
Cám thương ô dước bời lời,
-
Cha sao mẹ sến, dựa nơi gốc bần.
-
-
Cây bần kia hỡi cây bần,
-
Lá xanh bông thắm lại gần không thơm.
-
-
Chanh chua thì khế cũng chua,
-
Chanh bán có mùa khế bán tư niên.
-
-
20.
-
Chắc về đâu đã hẳn hơn đâu?
-
Cầu tre vững nhịp hơn cầu Thượng gia.
-
-
Chiều chiều bắt kéc nhổ lông,
-
Kéc kêu bớ chủ xin đừng bất nhơn.
-
-
Chiều chiều con quạ lợp nhà,
-
Con cu chẻ lạt, con gà đưa tranh.
-
-
Chiều chiều dạo mát dưới trăng,
-
Trông lên chỉ thấy chị Hằng ở trong.
-
-
Chiều chiều én liệng trên trời,
-
Rùa bò dưới đất khỉ ngồi trên cây.
-
-
Chiều chiều ông Lữ thả câu,
-
Sấu ăn ông Lữ chuỗi đầu xuống sông.
-
-
Chiều chiều vịt lội cò bay,
-
Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng.
-
Vô rừng bứt một sợi mây,
-
Đem về thắt gióng cho
mày đi buôn.
-
-
Chim bay mỏi
cánh chim ngơi,
-
Đố ai bắt được chim trời mới ngoan.
-
-
Chim bay về núi tối rồi,
-
Không cây chim đậu không mồi chim ăn.
-
-
Chim quyên dại lắm không khôn,
-
Sơn lâm không đậu, đậu cồn cỏ
may.
-
-
Chim xanh ăn trái xoài xanh,
-
Ăn no tắm mát đậu nhành cây đa.
-
-
Chuột chê xó bếp không nằm,
-
Chó
chê nhà dột ra lần bụi tre.
-
-
Có gió lung
-
Mới biết tùng bá cứng
-
Có ngọn lửa lừng mới rõ thức vàng cao.
-
-
Cóc chết bao thuở nhái rầu,
-
Ảnh ương lớn tiếng nhái bầu dựa hơi.
-
-
Con cá lóc nằm trên bụi sặc,
-
Con
cò mắc già mà chết,
-
Con quạ mua nếp làm chay,
-
Con cu đánh trống ba ngày,
-
Con ngỗng thức dậy dọn bày mâm
ra,
-
Cồng cộc ăn cá nghi nga,
-
Con chim cào cường phải ra ăn mày.
-
-
35. Con chim chìa vôi bay ngang đám
thuốc.
-
Con cá bã trầu lội tuốt mương cau.
-
-
Con cò chết rũ trên cây,
-
Cò con giở sách coi ngày làm ma.
-
Cà cuống uống rượu la đà,
-
Chim di ríu rít bò ra lấy phần.
-
41
-
-
Con cò mà đi ăn đêm,
-
Đậu phải cành
mềm
lộn cổ xuống ao.
-
Ông ơi ông vớt tôi nao,
-
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
-
Có xáo thì xáo nước trong,
-
Đừng xáo nước đục, đau lòng cò con.
-
-
Con cóc là
cậu ông trời,
-
Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho.
-
-
Con dê con ngựa khác dòng,
-
Ai cho con ngựa lộn cùng con dê.
-
-
40. Gà cồ ăn quẩn cối xay,
-
Hát bảy đêm ngày cũng có một câu.
-
-
Con gà cục tác lá chanh,
-
Con heo ì ịt đòi hành đòi tiêu.
-
-
Con kiến mày chạy trong nhà,
-
Ta đóng cửa lại mày ra đường nào.
-
Con cá mày ở dưới ao,
-
Ta tát nước vào, mày chạy đàng mô.
-
-
Con mèo con chuột có lông,
-
ố ng tre có mắt nồi đồng có quai.
-
Con mèo con
mẻo con meo,
-
Vồ con chuột béo nhảy leo xà nhà.
-
-
Con mèo đập bể nồi rang,
-
Con chó chạy lại phải mang lấy đòn.
-
-
Con mèo lành sao kêu mèo vá,
-
Con cá không thờ sao gọi cá linh?
-
-
Con quạ nó đứng chuồng heo,
-
Nó kêu bớ má bánh bèo chín chưa?
-
-
Con quạ nó đứng đầu cầu,
-
Nó kêu bớ má têm trầu khách ăn.
-
-
Con quạ tha lá lợp nhà,
-
Con cu chẻ lạt, con gà đựng phên.
-
-
Cu kêu ba tiếng cu kêu,
-
Cho mau tới Tết dựng nêu ăn chè.
-
-
Dưới đời ai tốt bằng bèo,
-
Chờ khi nước lụt bèo trèo lên sen.
-
Dưới đời ai tốt bằng sen,
-
Quan yêu dân chuộng, rã bèn cũng hư.
-
-
Đàn ai khéo gảy tính tinh,
-
Một đoàn con cá nược lặn ghềnh nó nghe.
-
Đầu
gánh có con ba ba,
-
Kẻ kêu con tranh, người la con rùa.
-
-
Đói lòng ăn trái khổ qua,
-
Nuốt vô thì đắng nhả ra bạn cười.
-
-
Đố ai biết món chi ngon,
-
Gà lộn trái vải, cu con ra ràng.
-
-
Đố ai mà được như sen,
-
Chung quanh cánh đỏ giữa chen nhị vàng.
-
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
-
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn.
-
-
Đố ai quét sạch lá rừng,
-
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
-
-
Đố bây con rít mấy chưn,
-
Cầu ô mấy nhịp chợ Dinh mấy người?
-
Chợ Dinh bán áo con trai,
-
Chợ trong bán chỉ chợ ngoài bán kim.
-
-
Em tôi buồn ngủ buồn nghê,
-
Con tằm đã chín con dê đã mùi.
-
-
Gập ghềnh nước chảy qua đèo,
-
Ngựa xô xuống biển thuyền chèo lên non.
-
-
Gió đưa bông lách bông lan,
-
Bông lê bông lựu đố nàng mấy bông?
-
-
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
-
Về sông ăn cá về đồng ăn cua.
-
-
Khoan khoan mổ ruột con gà,
-
Bí đao xắt nhỏ tiêu cà bỏ vô.
-
-
Má ơi con vịt chết chìm,
-
Thò tay vớt nó, cá kìm cắn tôi.
-
-
65.
-
Mèo ngao cắn cổ con cầy (ông thầy)?
-
Con cầy vật chết cả bầy mèo ngao.
-
-
Mình rồng đuôi phụng le the,
-
Mùa xuân ấp trứng mùa hè nở con.
-
Mở mang mang chạy lên rừng,
-
Ta hay mang chạy ta đừng mở mang.
-
-
Ngó lên đám bắp trổ cờ,
-
Đám dưa trổ nụ đám cà trổ bông.
-
-
Ngọc sa xuống biển ngọc trầm,
-
Thò tay
vớt ngọc vớt nhằm hột châu.
-
-
70. Nồi đồng đỏ (câu đố)
-
Hỡi cô da đỏ má hồng,
-
Cô đi theo chồng cô bỏ xứ cha.
-
Bây giờ tuổi tác đã già,
-
Xứ chồng cô bỏ xứ cha cô về?
-
-
Nước không chưn sao rằng nước đứng
-
Chén uống trà sao gọi chén chung?
-
-
Ông Bô mà lấy bà Bô,
-
Đẻ ra con diếc
con rô, con chầy.
-
45
-
-
Quạ kia nhắn nhủ với diều,
-
Cần câu xóm Rở được nhiều cá tôm.
-
-
Rủ nhau đi dạo vườn cà,
-
Cà non chấm mắm, cà già làm dưa.
-
Làm dưa ba bữa thì chua,
-
Chị kia xách giỏ lại mua ba tiền.
-
-
Rủ nhau đi tắm sông sau,
-
Áo đen che nắng quạt tàu che mưa.
-
-
Rủ nhau xuống biển bắt cua, (4)
-
Bắt cua cua kẹp, bắt rùa rùa bơi.
-
-
Rủ nhau xuống biển bắt cua, (5)
-
Lên non bắn nhạn, vô chùa nghe kinh.
-
-
Sinh con rồi mới sinh cha,
-
Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông.
-
-
Thằng Bờm có cái quạt mo,
-
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu,
-
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu;
-
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè,
-
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè,
-
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim,
-
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim,
-
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi,
-
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi,
-
Phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười.
-
-
Thằng Cuội ngồi gốc cây da, (2)
-
Bỏ chưn xuống giếng được ba đồng tiền.
-
-
Thằng Cuội ngồi gốc cây da, (3)
-
Để trâu ăn lúa gọi cha ồi
ồi,
-
Cha còn cắt cỏ trên trời,
-
Mẹ còn cỡi ngựa đi chơi cầu vồng!
-
-
Thấy anh hay chữ hỏi thử đôi lời,
-
Cây cỏ chi không lá, con cá gì không
xương.
-
- Thấy em hỏi tức anh nói phứt cho rồi,
-
Cây cỏ năng không lá, con cá họa không
xương.
-
-
Thấy anh hay chữ hỏi thứ đôi hàng,
-
Tiết Đinh San sao dám giương giàng bắn
cha?
-
- Tiết Nhơn Quí nằm dưới gốc da,
-
Hóa hình cọp bạch, Tiết Đinh San bắn lầm.
-
-
Tiếng anh ăn học cũng thông,
-
Lại đây em hỏi làm bánh bò bông bột gì?
-
- Làm bánh bò bông bằng bột tàn mì
-
Trứng gà khuấy lộn nó quì bốn tai.
-
-
Trái cây (vè trái cây)
-
Nghe ve nghe vẻ nghe vè trái cây,
-
Dây ở trên mây là trái đậu rồng,
-
Có vợ có chồng là trái đu đủ,
-
Chặt ra nhiều mủ là trái mít ướt.
-
Hình tựa gà xước vốn thiệt trái thơm.
-
Cái đầu chôm bôm là trái bắp nấu,
-
Rủ nhau làm xấu trái cà dái dê ,
-
Ngứa mà gãi mê là trái mắt mèo,
-
Khoanh tay lo nghèo là trái bần ổi.
-
Sông sâu chàng lội là trái mảng cầu,
-
Chẳng thấy nàng dâu thật là trái cách.
-
Trong ruột ọc ạch vốn thiệt dừa xiêm,
-
Hễ chín thâm kim; chuối già, chuối sứ.
-
Tam tung tự tứ là trái dưa gan,
-
Vấn ở Miền Man là trái bí rợ,
-
Mẹ sai đi chợ vốn thiệt trái dâu
-
Ở
những ao sâu là trái bông súng
-
Chằng nên lễ cúng vốn thiệt trái sung.
-
Nhỏ mà cay lung thiệt là ớt hiểm,
-
Đánh túc
cầu liềm vốn thiệt trái me,
-
Nắng mà chẳng che là trái rau mát,
-
Rủ nhau chà xát vốn thiệt trái chanh,
-
Nhỏ mà làm anh, trái đào lộn hột,
-
Ăn mà chẳng lột vốn thiệt trái tiêu,
-
Thổi nghe ú liêu là trái cóc kèn,
-
Rủ nhau đi rèn là trái đậu rựa,
-
Đua nhau chọn lựa là trái dành dành,
-
Cam ngọt, cam sành, chuối già chuối sứ.
-
Nhưng chi lịch sự bằng táo với hồng
-
Những gái chưa chồng muốn ăn mua lấy.
-
-
Trách lòng con nhện lăng toàn
-
Chỉ bao nhiêu sợi mỗi đàng mỗi giăng.
-
-
Trên trời có đám mây xanh
-
Có bông hoa lý có nhành mẫu đơn.
-
-
Trong đầm gì đẹp bằng sen
-
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
-
Nhị vàng bông trắng lá xanh
-
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
-
-
Tò vò mày nuôi con nhện,
-
Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi.
-
Tò vò ngồi khó c tỉ ti ,
-
Nhện ơi nhện hỡi mày đi đàng nào.
-
Tưởng là trồng cúc ngay hàng,
-
Ai hay cúc mọc một đàng một cây.
Tập 1
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5 Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Tập 2
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17 Trang
18
Trang 19
Trang 20
|