|
TUYỂN TẬP VĂN CHƯƠNG NHI ĐỒNG
- B
QUYỂN MỘT -
Phần 1b
DOĂN QUỐC SỸ
Sưu tập
CA DAO NHI ĐỒNG VIỆT
NAM (
Tiếp Theo )
I.
LUÂN LƯ
1. DẠY CON TỪ THUỞ
TIỂU SINH
Dạy con từ thuở tiểu sinh,
Gần thầy gần bạn tập tành lễ nghi.
Học hành cách vật chí tri,
Văn chương chữ nghĩa nghĩ ǵ cũng thông.
2. CÔNG ĐỨC SINH
THÀNH
Mẹ cha công đức sinh thành,
Ra trường thầy dạy, học hành cho hay.
Muốn khôn th́ phải có thầy,
Không thầy dạy dỗ đố mày làm nên.
Mười năm luyện tập sách đèn,
Công danh gặp bước chớ quên ơn thầy.
Yêu kính thầy mới làm thầy,
Những phường bội-bạc sau này ra chi.
3. CÂY XANH TH̀ LÁ
CŨNG XANH
Cây xanh th́ lá cũng xanh,
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Mừng cây rồi lại mừng cành,
Cây đức lắm chồi, người đức lắm con.
Ba vuông sánh với bảy tṛn,
Đời cha vinh hiển, đời con sang giàu.
4. CÂY KHÔ CHƯA DỄ
MỌC CHỒI
Cây khô chưa dễ mọc chồi,
Bác mẹ chưa dễ ở đời với ta.
Non xanh bao tuổi mà già,
Bởi v́ sương tuyết hoá ra bạc đầu.
5. CÔNG CHA NGHĨA MẸ
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một ḷng thờ mẹ kính cha,
Cho tṛn chữ hiếu mới là đạo con.
6. NGÀY NÀO EM BÉ CỎN
CON
Ngày nào em bé cỏn con
Bây giờ em đă lớn khôn thế này.
Cơm cha áo mẹ công thầy,
Lo sao cho đáng những ngày ước mong.
7. THỜ CHA MẸ Ở HẾT
L̉NG
Thờ cha mẹ ở hết ḷng,
Aáy là chữ hiếu ở trong luân thường.
Chữ đễ nghĩa là nhường,
Nhường anh, nhường chị, lại nhường người trên.
Ghi ḷng tạc dạ chớ quên,
Con em phải giữ lấy nền con em.
8. EM THỜI ĐI CẤY
RUỘNG BÔNG
Em thời đi cấy ruộng bông,
Anh đi cắt lúa để chung một nhà
Đem về phụng dưỡng mẹ cha,
Muôn đời tiếng hiếu người ta c̣n truyền.
9. CÔNG CHA NHƯ NÚI
NGẤT TRỜI
Ru ơi ru hỡi ru hời,
Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông.
Núi cao, biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi ḷng con ơi.
10. ANH EM NÀO PHẢI
NGƯỜI XA
Anh em nào phải người xa,
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân.
Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hoà thuận hai thân vui vầy.
11. CON ƠI MUỐN NÊN
THÂN NGƯỜI
Con ơi muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thời chăm chỉ trong nhà,
Khi vào canh củi, khi ra thêu thùa.
Trai th́ đọc sách ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Nữa mai nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là hiển thân.
12. LÀM TRAI QUYẾT
CHÍ TU THÂN
Làm trai quyết chí tu thân,
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Khi nên trời giúp công cho,
Làm trai năm liệu, bảy lo mới hào.
Trời sinh, trời chẳng phụ nào.
Công danh gặp hội, anh hào ra tay.
Trí khôn sắp để dạ này,
Có công mài sắc, có ngày nên kim.
13. LÀM TRAI NẾT ĐỦ
TRĂM ĐƯỜNG
Làm trai nết đủ trăm đường,
Trước tiên điều hiếu, đạo thường xưa nay.
Công cha, đức mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân.
Thức khuya, dậy sớm cho cần,
Quạt nồng, ấp lạnh giữ phần đạo con.
14. CON ƠI MẸ BẢO ĐÂY
NÀY
Con ơi mẹ bảo đây này,
Học buôn học bán cho tày người ta.
Con đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười.
Dù no dù đói cho tươi,
Khoan ăn, bớt ngủ, liệu bài lo toan.
Pḥng khi đóng góp việc làng,
Đồng tiền bát gạo lo toan cho chồng.
Trước là đắc nghĩa cùng chồng,
Sau là họ mạc cũng không chê cười.
Con ơi, nhớ bấy nhiêu lời !
15. LÀM NGƯỜI CHO
BIẾT TIỆN TẦN
Làm người cho biết tiện tần,
Đồ ăn thức mặc có ngần th́ thôi.
Những người đói rách rạc rời,
Bởi phụ của trời làm chẳng nên ăn.
16. TRỨNG RỒNG LẠI NỞ
RA RỒNG
Trứng rồng lại nở ra rồng,
Hạt thông lại nở cây thông rườm rà.
Có cha sinh mới ra ta,
Làm nên thời bởi mẹ cha vun trồng.
Khôn ngoan nhờ ấm cha ông,
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ.
Đạo làm con, chớ hững hờ,
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm.
17. TRẮNG NHƯ THUỶ
TINH
Trắng như thủy tinh
Trong như giá lọc,
Nhún ḿnh như đồng đen.
Ai ơi chớ nghĩ rằng hèn,
Ḱa như nước đục đánh phèn lại trong.
18. TRỜI SINH RA ĐĂ
LÀM NGƯỜI
Trời sinh ra đă làm người
Hay ăn, hay nói, hay cười hay chơi.
Khi ăn thời phải lựa mùi,
Khi nói, th́ phải lựa lời chớ sai.
Cả vui chớ có vội cười,
Nơi không lễ phép chớ chơi làm ǵ.
19. BỒNG BỐNG BỒNG
BÔNG.
Bồng bống bồng bông.
Giai ơn vua chầu chực sân rồng,
Gái ơn chồng ngồi vơng ru con.
Ơn vua xem nặng bằng non,
Ơn chồng đội đức tổ tôn giơi chuyền.
Làm trai lấy được vợ hiền,
Như cầm đồng tiền lấy được của ngon.
Phận gái lấy được chồng khôn,
Xem bằng cá vượt Vũ-môn hoá rồng.
Bồng bống bồng bông.
20. BỒNG BỒNG MẸ BẾ
CON SANG
Bồng bồng mẹ bế con sang,
Đ̣ dọc quan cấm đ̣ ngang không chèo.
Muốn sang th́ bắc cầu Kiều,
Muốn con hay chữ th́ yêu lấy thầy.
II.
NHỮNG BÀI HÁT VUI
21. CHÈ LA, CHÈ LÍT
Chè la, chè lít,
Bà cho ăn quưt,
Bà đánh đau tay,
Chắp tay lạy bà.
22. KÉO CƯA LỪA XẺ
Kéo cưa lừa xẻ,
Thợ khoẻ cơm vua,
Thợ thua cơm làng,
Thợ nào dẻo dang,
Về nhà bú tí.
23. KÉO CƯA KÉO KÍT
Kéo cưa kéo kít,
Làm ít ăn nhiều,
Nằm đâu ngủ đấy,
Nó lấy mất cưa,
Lấy ǵ mà kéo ?!
24. XU XOA XU XUƯT
Xu-xoa xu-xuưt
Bán quưt chợ đông,
Bán hồng chợ tây,
Ba đồng một quả,
Mua vậy th́ mua.
25. VUÔN VẢI VUÔN VAI
Vuôn vải vuôn vai
Chóng lớn chóng dài,
Đi chơi với trẻ,
Sức khoẻ sống lâu
Bạc đầu cồi cội.
26. NAM MÔ BỒ TÁT
Nam mô bồ tát,
Chẻ lạt đứt tay,
Đi cày trâu húc,
Đi xúc phải cọc,
Đi học thầy đánh,
Đi gánh đau vai,
Nằm dài nhịn đói.
27. CHIỀU CHIỀU CON
QUẠ LỢP NHÀ
Chiều chiều con quạ lợp nhà,
Con cu chẻ lạt, con gà đưa tranh *
Chèo-bẻo nấu cơm nấu canh,
Ch́a vôi đi chợ mua hành về nêm
(*) Đưa tranh đây tức là đưa gianh
(cỏ) lên để lợp nhà
28. CÁI BỐNG LÀ CÁI
BỐNG BANG (I)
Cái bống là cái bống bang.
Mẹ bống yêu bống, bống càng làm thơ.
Ngày sau bống đỗ ông đồ,
Đi vơng lá sắn, đi dù lá khoai.
29. CÁI BỐNG LÀ CÁI
BỐNG BANG (II)
Cái bống là cái bống bang,
Cơm ăn bằng sàn, bốc muối bằng vung.
Mẹ giận mẹ giẩy xuống sông,
Con ra đường biển lấy chồng lái buôn.
Khát nước th́ uống nước nguồn,
Lạc đường th́ bảo lái buôn đưa về.
30. CÁI BỐNG LÀ CÁI
BỐNG B̀NH
Cái bống là cái bống b́nh,
Thổi cơm nấu, nướng một ḿnh mồ hôi.
Sáng ngày có khách đến chơi,
Cơm ăn, rượu uống cho vui ḷng chồng.
Rạng ngày ăn uống vừa xong,
Tay nhắc mâm đồng, tay giải chiếu hoa.
Nhịn miệng đăi khách đằng xa,
Aáy là của gửi chồng ta ăn đàng *
(*) Ư nói nhịn miệng đăi khách như
vậy cũng như chuẩn bị gửi của cho chồng đi xa vào những dịp sau này. Ư
nghĩ thật thực tế!
31. CÁI BỐNG ĐI CHỢ
CẦU CANH
Cái Bống đi chợ Cầu
Canh,
Con tôm đi trước củ hành theo sau.
Con cua lạch đạch theo hầu,
Cái chày rơi xuống vỡ đầu con cua.
32. CÁI BỐNG C̉N Ở
TRONG HANG
Cái bống c̣n ở trong
hang,
Cái rau tập tàng* c̣n ở ruộng dâu.
Ta về ta sắm cần câu,
Câu lấy cá bống nấu rau tập-tàng.
(*) Người ta giải thích rau tập-tàng
là láo nháo nhiều thứ rau hái về để nấu canh cá bống.
33. BỒ CU BỒ CÁC
Bồ-cu, bồ các,
Tha rác lên cây.
Gió đánh lung lay,
Là vua Cao-tổ.
Những người mặt rổ,
Là ông Tiêu-Hà.
Nước chảy qua đường,
Là giượng Tào Tháo.
Đánh bạc cố áo,
Là anh Trần B́nh.
34. CÓC CHẾT BỎ NHÁI
MỒ CÔI
Cóc chết bỏ nhái mồ côi,
Chẩu ngồi, chẩu khóc :”Chàng ôi là chàng!”
ỄÂÂnh ương đánh lệnh đă vang,
Tiền đâu mà trả, nợ làng ngoé ơi!
35. CON CÓC LÀ CẬU
ÔNG TRỜI
Con cóc là cậu ông trời
Hễ ai đánh nó th́ trời đánh cho.
Con cóc là cậu thầy nho,
Hễ ai đánh chết trời cho quan tiền.
36. T̀NH TÍNH TANG TANG T̀NH TANG
T́nh tính tang, tang t́nh tang,
Súng vác vai, hoả mai tọng nạp,
Gươm tuốt trần, giáo cắp, mộc mang.
Tang t́nh tang.
Giương cung mà bắn con c̣,
Con cốc nó lội con c̣ nó bay.
Tính t́nh tang, tang t́nh tang.
37. CON GÀ CỤC TÁC LÁ
CHANH
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi.
Con chó khóc đứng khóc ngồi,
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.
38. CON KIẾN MÀY KIỆN
CỦ KHOAI
Con kiến mày kiện củ khoai,
Mày chê tao khó lấy ai cho giầu.
Nhà tao chín đụn mười trâu,
Lại thêm ao cá bắt cầu rửa chân.
39. SAO HÔM LÓNG LÁNH
Sao hôm lóng lánh,
Sao mai lóng lánh,
Cuốc đă sang canh,
Gà kia gáy rúc,
Chích choè ĺa tổ,
Trời đă rạng đông.
40. HỒ KHOAN, HỒ UẨY
Hồ khoan, hồ uẩy!
Hồ khoan, hồ uẩy!
Aên đă vậy,
Múa gậy làm sao?
Chân thấp chân cao,
Cho mau cho chóng,
Năng khiếp, năng dũng,
Hữu khuất hữu thân*
Cao-tổ thời nhân,
Hạng-vương thời bạo
Nhân hiền tại mạỉo
Trắng gạo ngon cơm.
Hồ khoan, hồ uẩy!
Hồ khoan, hồ uẩy!
(*) Khiếp : nhát gan, trái với dũng
là mạnh mẽ, can đảm. Khuất : co lại, cúi xuống, trái với thân là duỗi ra.
41. CON CHÓ CHÊ KHỈ
LẮM LÔNG
Con chó chê khỉ lắm lông,
Khỉ lại chê chó ăn dông ăn dài,
Lươn ngắn lại chê trạch dài,
Thờn-bơn méo miệng chê chai lệch mồm.
42. RÉT NÀNG BÂN
Tháng giêng rét đài,
Tháng hai rét lộc.
Tháng ba rét nàng Bân.
Nàng Bân may áo cho chồng,
May ba tháng ṛng mới được cửa tay.
CHÚ THÍCH : toàn bài
ư nói tháng giêng có những ngày rét để cây nảy đài, tháng hai có những
ngày rét để cây nảy lộc, tháng ba đă chuẩn bị sang đầu hạ rồi, rất hiếm có
rét. Thảng hoặc có được một ngày rét vớt-vát th́ đó là cái rét có tính
cách khôi hài của Hoá-công để riễu cô nàng lười – nàng Bân – may áo cho
chồng. (Đây là nói khí hậu miền Bắc)
43. THẰNG CUỘI NGỒI
GỐC CÂY ĐA
Thằng cuội ngồi gốc cây đa,
Để trâu ăn lúa gọi cha lời ời.
Cha c̣n cắt cỏ trên trời,
Mẹ c̣n cưỡi ngựa đi chơi cầu vồng.
44. THẰNG BỜM CÓ CÁI
QUẠT MO
Thằng Bờm có cái quạt mo,
Phú ông xin đổi ba ḅ chín trâu.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy trâu!
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mè !
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy lim!
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mồi !
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.
45. TAY CẦM CON DAO
Tay cầm con dao,
Làm sao cho sắc.
Để mà dễ cắt,
Để mà dễ chặt.
Chặt lấy củi cành,
Trèo lên rừng xanh,
Chạy quanh sườn núi.
Một ḿnh thui thủi,
Chặt cây chặt củi.
T́m chốn mà ngồi,
Ngồi mát thảnh thơi.
Ḱa một đàn chim,
Ở đâu bay đến,
Ở đâu bay lại.
Con đang cắn trái,
Con đang tha mồi,
Qua lối nọ nó ăn.
Cái con hươu kia,
Mày đang ăn lộc,
Lộc vả lộc sung.
Mày trông thấy tớ,
Tớ không đuổi mày,
Mày qua lối nọ làm chi?
46. ÔNG TRĂNG MÀ LẤY
BÀ TRỜI
Ông Trăng mà lấy bà Trời,
Tháng năm đi cưới, tháng mười nộp cheo.
Sỏ lợn lớn hơn sỏ mèo,
Làng ăn chẳng hết đem treo cột đ́nh.
Ông Xă đánh trống th́nh-th́nh,
Quan viên mũ áo ra đ́nh xem cheo.
CHÚ THÍCH : Tục lệ
xưa của ta sau khi hai người làm lễ cưới th́ phải nộp cheo (chữ Hán gọi là
Lan Nhai) cho làng. Theo ông Nguyễn-Văn-Tố th́ bài trên nầy do trẻ em tại
Thái-b́nh hát để riễu những người không được ṣng phẳng trong lệ nộp cheo.
(Xin đọc : Nguyễn-Văn-Tố, “A Propos de Chants et de Jeux d’Enfans” IIEH
1943, Tome VI Hanoi, 1943, p.175.)
47. ÔNG GIĂNG MÀ LẤY
BÀ SAO
Ông Giăng mà lấy bà Sao,
Đến mai có cưới cho tao miếng giầu.
Có cưới th́ cưới con trâu,
Chớ cưới con nghé nàng dâu không về.
48. CON NHỆN Ở TRÊN
MÁI NHÀ
Con nhện ở trên mái nhà,
Nó đương làm cỗ cúng bà nó mai.
Nó rằng nó chẳng mời ai,
Mời một ông chú với hai bà d́.
49. TH̀A LA TH̀A LẢY
Th́a-la th́a lảy!
Con gái bảy nghề *
Ngồi lê là một,
Dựa cột là hai,
Theo trai là ba,
Ăn quà là bốn,
Trốn việc là năm,
Hay nằm là sáu,
Láu táu là bảy.
* Bảy nghề : đây tức là bảy tật xấu.
50. XẤU HỔ
Xấu hổ,
Lấy rổ mà che
Lấy nong mà đè,
Lấy đấu mà đong,
Lấy chầy đâm bong.
CHÚ THÍCH : Bài hát
riễu em hay xấu hổ này thường được nghe thấy ở các vùng Hà-đông và
Bắc-ninh.
51. GIÓ ĐẬP CÀNH ĐA
Gió đập cành đa,
Gió đánh cành đa,
Thầy nghĩ là ma,
Thầy ù thầy chạy.
Ba thằng ba gậy,
Đi đón thầy về.
CHÚ THÍCH : Bài nầy
hát riễu thầy phù-thủy nhát ma. Cũng như hai bài tiếp đây riễu thầy bói
dốt.
52. SỐ CÔ CHẲNG GIÀU
TH̀ NGHÈO
Số cô chẳng giàu th́ nghèo,
Ba mươi tết có thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha,
Mẹ cô đàn bà, bố cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu ḷng chẳng gái th́ trai.
53. NHẤT HÀO NHỊ HÀO
TAM HÀO
Nhất hào, nhị hào, tam hào …
Chó chạy bờ ao.
Chuột chạy bờ rào.
Quẻ này có động.
Nhà này có quái trong nhà,
Có con chó đực cắn ra đằng mồm.
54. CON CHIM SÁO SẬU
Con chim sáo-sậu
Ăn cơm nhà cậu
Uống nước nhà cô
Đánh vỡ bát ngô
Bà cô phải đền.
55. LÚC NGÔ LÀ CÔ ĐẬU
NÀNH
Lúa ngô là cô đậu nành,
Đậu nành là anh dưa chuột.
Dưa chuột là ruột dưa gang.
Dưa gang là nàng dưa hấu.
Dưa hấu là cậu lúa ngô.
Lúa ngô là cô đậu nành …
CHÚ THÍCH : Bài này
cũng như một số bài kế tiếp thuộc loại “bài hát bất tận” như đi theo một
ṿng tṛn, lúc nào muốn ngừng th́ ngừng.
56. CON CHIM MANH
MANH
Con chim manh manh,
Nó đậu cành chanh,
Tôi ném ḥn sành,
Nó quay lông-lốc.
Tôi làm một chốc,
Được ba mâm đầy,
Ông thầy ăn một,
Bà cốt ăn hai.
C̣n cái thủ, cái tai,
Tôi đem biếu chúa.
Chúa hỏi chim ǵ?
Con chim chích cḥe.
57. CON CÔNG HAY MÚA
Con công hay múa,
Nó múa làm sao?
Nó rụt cổ vào.
Nó x̣e cánh ra.
Nó đậu cành đa,
Nó kêu ríu-rít.
Nó đậu cành mít,
Nó kêu vịt chè.
Nó đậu cành tre,
Nó kêu bè muống.
Nó đáp xuống ruộng,
Nó kêu tầm vông.
Con công hay múa …
58. CÁI KIẾN MÀY ĐẬU
CÀNH ĐÀO
Cái kiến mày đậu cành đào
Leo phải cành cộc leo vào leo ra.
Con kiến mày đậu cành đa
Leo phải cành cộc, leo ra leo vào…
59. BA BÀ ĐI BÁN LỢN
CON
Ba bà đi bán lợn con,
Bán đi chẳng được lon-xon chạy về.
Ba bà đi bán lợn sề,
Bán đi chẳng được chạy về lon-xon.
60. MẸ EM ĐI CHỢ ĐƯỜNG NGOÀI
Mẹ em đi chợ đường ngoài,
Mua em cây mía vừa dài vừa cong.
Mẹ em đi chợ đường trong,
Mua em cây mía vừa cong vừa dài…
61. GIĂ ƠN CÁI CỐI
CÁI CHÀY
Giă ơn cái cối cái chày,
Nửa đêm gà gáy có mày có tao.
Giă ơn cái cọc cầu ao,
Nửa đêm gà gáy có tao có mày …
62. CON VỎI CON VOI
Con vỏi con voi !
Cái ṿi đi trước,
Hai chân trước đi trước,
Hai chân sau đi sau,
Cái đuôi đi sau rốt,
Tôi xin kể nốt,
Cái chuyện con voi …
63. ÔNG NỈNH ÔNG NINH
Ông Nỉnh ông Ninh,
Ông ra đầu đ́nh gặp ông Nảng ông Nang.
Ông Nảng ông Nang,
Ông ra đầu làng ông gặp ông Nỉnh ông Ninh.
64. CÁI NGỦ MÀY NGỦ CHO LÂU
Cái ngủ mày ngủ cho lâu,
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về.
Bắt được mười tám mười chín con trê,
Cầm cổ lối về cho cái ngủ ăn.
Cái ngủ ăn chẳng hết
Để dành đến tết mùng ba.
Mèo già ăn trộm,
Mèo ốm phải đ̣n,
Mèo con phải vạ,
Con quạ đứt đuôi,
Con ruồi đứt cánh,
Đ̣n gánh có mấu,
Củ ấu có sừng,
Bánh chưng có lá,
Con cá có vây,
Ông thầy có sách,
Thợ ngạch có dao,
Thợ rào có búa,
Sảy lúa có sàng,
Việc làng có mơ,
Cắt cỏ có liềm,
Câu liêm có lưỡi,
Cây bưởi có hoa,
Cây cà có trái,
Con gái có chồng,
Đàn ông có vợ,
Kẻ chợ có vua,
Trên chùa có bụt,
Cái bút có ng̣i,
Con voi có quản.
CHÚ THÍCH : bài này
và một số bài kế tiếp thuộc loại vô nghĩa, chỉ cần có vần có điệu, tương
đương với lọai của Anh Mỹ gọi là “Nonsense”.
65. CÁI CÁO MẶC ÁO EM TAO
Cái cáo mặc áo em tao,
Làm tổ cây cà,
Làm nhà cây chanh,
Đọc canh bờ giếng,
Mỏi miệng tiếng kèn.
Hỡi cô trồng sen !
Cho anh hái lá.
Hỡi cô trồng bưởi !
Cho anh hái hoa.
Cứ một cụm ca,ụ
Là ba cụm lư.
Con nhà ông lư,
Mặc áo tía-tô.
Con nhà thằng Ngô,
Mặc áo lang khách.
Hai con chim khách,
Đánh nhau trên cây.
Hai cái bánh giày,
Đánh nhau mâm cỗ.
Có hai hạt đỗ,
Đánh nổ nồi rang.
Hai con kiến càng,
Đánh nhau lọ mật.
Có hai ḥn đất,
Đánh vật bờ ao.
Mày tát chuôm tao,
Tao tát ao mày.
Mày đầy rổ cá,
Tao đầy rổ tôm.
Mày đi chợ Cầu-nôm,
Tao đi chợ Cầu-rền.
Mày bán cửa đền,
Tao bán cửa vua.
Mày làm mắm chua,
Tao làm mắm thính.
Mày con ông Chính,
Tao con ông Xă.
Mày là cái cả,
Tao là thằng hai.
Mày đội bồ đài.*
Tao đội nón méo,
Mày cầm cái kéo,
Tao cầm con dao.
Mày làm sao,
Tao làm vậy.
Mày đi buôn cậy,**
Tao đi buôn hồng.
Mày đi lấy chồng,
Tao đi lấy vợ.
Mày lên kẻ chợ ***
Tao về nhà quê.
(*) : Bồ đài : cái mo
cau gập lại dùng để múc nước.
(**): Cậy : một thứ cây như cây hồng, quả nhỏ, có nhựa dùng để phất quạt.
(***): Kẻ chợ : chỗ đô hội.
66. ÔNG TIỂN ÔNG TIÊN
Ông tiển ông tiên,
Ông có đồng tiền,
Ông gài mái tai,
Ông cài lưng khố,
Ông ra hàng phố,
Ông mua miếng trầu,
Ông nhai tóp tép,
Ông mua con tép,
Về nhà ăn cơm,
Ông mua mớ rơm,
Về nhà ông thổi,
Ông mua cái chổi,
Về ông quét nhà,
Ông mua con gà,
Về cho ăn thóc,
Ông mua con cóc,
Về thả gậm giường,
Ông mua nén hương,
Về nhà cúng cụ.
67. ÔNG GIẲNG ÔNG
GIĂNG (I)
Ông giẳng ông giăng,
Xuống chơi với tôi,
Có bầu có bạn,
Có ván cơm xôi,
Có nồi cơm nếp,
Có nệp bánh chưng,
Có lưng hũ rượu,
Có chiếu bám đu,
Thằng cu xí-xóa,
Bắt trai bỏ giỏ,
Cái đỏ ẵm em,
Đi xem đánh cá,
Có rá vo gạo,
Có gáo múc nước,
Có lược chải đầu,
Có trâu cày ruộng,
Có muống thả ao,
Ông sao trên trời.
68. ÔNG GIẲNG ÔNG GIĂNG (II)
Ông giẳng ông giăng,
Ông giằng búi tóc,
Ông khóc ông cười,
Mười ông một cỗ,
Đánh nhau lỗ đầu,
Đi cầu hàng huyện,
Đi kiện hàng phủ,
Một lũ ông già,
Mười ba ông điếc.
69. ÔNG GIẲNG ÔNG
GIĂNG (III)
Ông giẳng ông giăng,
Xuống chơi ông Chính,
Ông Chính cho mơ,
Xuống chơi nồi trơ,
Nồi trơ cho vung,
Đến chơi cành sung,
Cây sung cho nhựa,
Đến chơi con ngựa,
Con ngựa cho gan,
Đến chơi bà quan,
Bà quan cho bạc,
Đến chơi thợ giác,
Thợ giác cho bầu,
Đến chơi cần câu,
Cần câu cho lưỡi,
Đến chơi cây bưởi,
Cây bưởi cho hoa,
Đến chơi cây cà,
Cây cà cho trái,
Đến chơi con gái,
Con gái cho chồng,
Đến chơi đàn ông,
Đàn ông cho vợ,
Đến chơi kẻ chợ,
Kẻ chợ cho voi,
Đến chơi cây ṣi,
Cây ṣi cho lá,
Đến chơi con cá,
Con cá cho vây,
Đến chơi ông thầy,
Ông thầy cho sách,
Đến chơi thợ ngạch,
Thợ ngạch cho dao,
Đến chợ thợ rào,
Thợ rào cho búa,
Trả búa thợ rào,
Trả dao thợ ngạch,
Trả sách ông thầy,
Trả vây con cá,
Trả lá cây ṣi,
Trả voi kẻ chợ,
Trả vợ đàn ông,
Trả chồng con gái,
Trả trái cây cà,
Trả hoa cây bưởi,
Trả lưỡi cành câu,
Trả bầu thợ giác,
Trả bạc bà quan,
Trả gan con ngựa,
Trả nhựa cây sung,
Trả vung nồi trơ,
Trả mơ ông Chính.
CHÚ THÍCH : bài này
cũng như bài : “Bắt được con công” kế tiếp có một kỹ thuật kể xuôi rồi trả
ngược đặc biệt ngộ nghĩnh.
70. BẮT ĐƯỢC CON CÔNG
Chú bé bắt được con công,
Đem về biếu ông,
Ông cho con gà,
Đem về biếu bà,
Bà cho quả thị.
Đem về biếu chị,
Chị cho quả chanh.
Đem về biếu anh,
Anh cho tu-hú.
Đem về biếu chú,
Chú cho buồng cau,
Chú thím đánh nhau,
Buồng cau trả chú,
Tu hú trả anh,
Quả chanh trả chị,
Quả thị trả bà,
Con gà trả ông,
Con công phần tôi.
71. BAO GIỜ CHO ĐẾN
THÁNG BA
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.
Hùm nằm cho lợn liếm lông,
Một chục quả hồng nuốt lăo tám mươi.
Nắm sôi nuốt trẻ lên mười,
Con gà, be rượu nuốt người lao đao,
Lươn nằm cho trúm ḅ vào,
Một đoàn cào-cào đuổi bắt cá-rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn ḅ,
Cỏ năn cỏ lác ŕnh ṃ bắt trâu.
Gà con đuổi bắt diều hâu
Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông.
CHÚ THÍCH : Bài này
và hai bài kế tiếp “Bước sang tháng sáu giá chân” và “Vè nói ngược” thuộc
loại những bài ca ngược đời tương đương với những bài Anh Mỹ mệnh danh là
“Contradiction”.
72. BƯỚC SANG THÁNG SÁU GIÁ CHÂN
Bước sang tháng sáu giá chân,
Tháng một nằm trần bức đổ mồ hôi.
Con chuột kéo cầy lồi lồi,
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong.
Vườn rộng th́ thả rau rong.
Ao sâu giữa đồng, văi cải làm dưa.
Đàn ḅ đi tắm đến trưa,
Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương.
Voi kia nằm ở gặm giường,
Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn.
Chuồn kia thấy cám liền ăn,
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua.
Trời mưa cho mối bắt gà,
Tḥng-đong cân-cấn đuổi c̣ lao xao.
Lươn nằm cho trúm ḅ vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Thóc giống cắn chuột trong bồ,
Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu.
Chim chích cắn cổ diều hâu,
Gà con tha quạ biết đâu mà t́m.
Bong bóng th́ ch́m, gỗ lim th́ nổi.
Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai.
Ḥn đá giẻo dai, ḥn xôi rắn chắc.
Gan lợn th́ đắng, bồ ḥn th́ bùi.
Hương hoa th́ hôi, nhất thơm th́ cú.
Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu.
Hay cắn th́ trâu, hay cày th́ chó.
73. VÈ NÓI NGƯỢC
Nghe vẻ vè ve,
Nghe vè nói ngược.
Ngựa đua dưới nước,
Tàu chạy trên bờ,
Trên núi đặt lờ.
Dưới sông bửa củi,
Gà cồ hay ủi,
Heo nái hay bươi,
Nước kém mùng mười,
Ba mươi nước lớn.
74. Ù Ỳ CÚT KÍT
Ù ỳ cút kít,
Xay lúa lấy gạo ăn mai,
Có một thợ cấy với hai thợ cày.
Thợ cấy mà lấy thợ cày,
Để cho thợ mạ khóc ngày khóc đêm.
75. VÀO VƯỜN XEM VƯỢN
HÁI HOA
Vào vườn xem vượn hái hoa,
Xem voi đi guốc, xem gà nhuộm răng.
Xuống sông xem cá đấu roi,
Xem tôm quần thảo, xem trai giỏ ḿnh.
76. CHIM XUẤT QUÂN
Tùng tùng, đánh ba hồi trống !
Sắp quân cho chỉnh,
Phượng hoàng thống lĩnh,
Bạch hạc hiệp đồng,
Tả chi th́ công,
Hữu chi th́ sếu,
Giang cao ngất nghểu,
Đi trước tiên phong,
Cả mỏ bồ nông,
Đi sau tiếp hậu,
Sáo đen, sáo sậu,
Rán giục đôi bên,
Chú quạ thông tin,
Dóng dả ba quân,
Đội lương đi trước,
Một đàn vịt nước,
Chú két, chú le,
Sắm sửa thuyền bè,
Cho bọn trảy thủy,
Chim chích, chim ri,
Bé mọn biết ǵ,
Ở nhà coi sóc,
Chú c̣ chú cốc,
Coi sóc các làng,
Chèo bẻo nỏ nang,
Bầu cho làm huyện,
Đêm hôm đi tuần,
Phó cho chú vạc,
Chú ngỗng nghếch ngác,
Như thể đàn bà,
Chú vịt, chú gà,
Nhắc vơng ông già,
Trèo lên núi chiều,
Giặc thấy đă nhiều,
Chạy như con cút.
77. T̉ V̉ MÀ NUÔI CON
NHỆN
Ṭ ṿ mà nuôi con nhện,
Đến khi nó lớn, nó quện nhau đi.
Ṭ ṿ ngồi khóc tỉ ti,
Nhện ơi nhện hỡi, mày đi đằng nào.
78. LẠY TRỜI CHO CHÚA
TÔI GIÀU
Lạy trời cho chú tôi giàu,
Cho tôi hút mỡ, ăn dầu quanh năm.
Lạy trời cho chúa tôi hoang,
Cho tôi mắc vơng nghênh ngang cửa nhà.
CHÚ THÍCH : Hai câu
trên là lời con gián; hai câu dưới là lời con nhện.
79. LẠY TRỜI MƯA
XUỐNG
Lạy trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm nấu bếp.
80. CON KIẾN MÀY Ở
TRONG NHÀ
Con kiến mày ở trong nhà,
Tao đóng cửa lại mày ra đường nào?
Con cá mày ở dưới ao,
Tao tát nước vào mày chạy đường mô?
CHÚ THÍCH : Bài này
c̣n có một bài biến thể khác như sau :
Con kiến mày ở trong nhà,
Tao đóng cửa lại mày ra lối nào?
Con cá mày ở dưới ao,
Tao tháo nước vào chết lụt đêm nay!
Con chim mày ở trên cây,
Tao đốn dưới gốc mày bay đường nào.
81. CON MÈO MÀ TRÈO
CÂY CAU
Con mèo mày trèo cây cau,
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.
Chú chuột đi chợ đường xa.
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo.
82. ÔNG TRĂNG MÀ BẢO
ÔNG TRỜI
Ông trăng mà bảo ông trời,
Những người hạ giới là người như tiên.
Ông trời mới bảo ông trăng,
Những người hạ giới mặt nhăn như tiều.
83. TRÊN TRỜI CÓ VẨY
TÊ TÊ
Trên trời có vẩy tê te.â
Một ông bảy vợ không chê vợ nào.
Một vợ tát nước bờ ao,
Phải trận mưa rào đứng nép bụi tre.
Một vợ th́ đi buôn bè,
Cơn sóng, cơn gió nó đè xuống sông.
Một vợ th́ đi buôn bông,
Chẳng may cơn táp nó giông lên trời.
Một vợ th́ đi buôn vôi,
Khi vôi phải nước nó sôi ầm ầm.
Một vợ th́ đi buôn mâm,
Không may mâm thủng lại nằm ăn xôi.
Một vợ th́ đi buôn nồi,
Không may nồi méo, một nồi hai vung.
Một vợ th́ đi buôn hồng,
Không may hồng bẹp, một đồng ba đôi.
Than rằng đất hỡi trời ôi!
Trời cho bảy vợ như tôi làm ǵ.
III.
CON C̉ TRONG CA DAO
84. CÁI C̉ ĐI ĐÓN CƠN
MƯA
Cái c̣ đi đón cơn mưa,
Tối tăm mờ mịt ai đưa c̣ về.
C̣ về đến gốc cây đề,
Giương cung anh bắn, c̣ về làm chi.
C̣ về thăm bá, thăm d́,
Thăm cô xứ Bắc, thăm d́ xứ Đông.
85. CÁI C̉ CHẾT TỐI
HÔM QUA
Cái c̣ chết tối hôm qua,
Có hai hạt gạo với ba đồng tiền.
Một đồng mua trống, mua kèn,
Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong.
Một đồng mua mớ rau rong,
Đem về thái nhỏ thờ vong con c̣.
86. CÁI C̉ LÀ CÁI C̉
VÀNG
Cái c̣ là cái c̣n vàng,
Mẹ đi đắp đàng, con ở với ai?
Con ở với bà, bà không có vú,
Con ở với chú, chú là đàn ông.
87. CÁI C̉ LÀ CÁI C̉
CON
Cái c̣ là cái c̣ con,
Mẹ nó yêu nó, nó c̣n làm thơ. *
Cái c̣ bay lửng bay lơ,
Lại đây anh gửi xôi khô cho nàng.
Đem về nàng nấu, nàng rang,
Nàng ăn có giẻo, thời nàng lấy anh.
(*) Làm thơ : đây có
nghĩa là làm nũng như thói quen của các em c̣n non nhỏ.
88. CÁI C̉ TRẮNG BẠCH
NHƯ VÔI
Cái c̣ trắng bạch như vôi,
Cô kia lấy lẽ chú tôi th́ về.
Chú tôi chẳng mắng, chẳng chê,
Thím tôi móc mắt, mổ mề xem gan.
89. CÁI CỐC MÀY LẶN
AO CHÀ
Cái cốc mày lặn ao chà*,
Bay lên rủ cánh làm nhà chị nương.
Yếm thắm mà nhuộm hoa nương,
Cái răng hạt đỗ làm tương anh đồ.
Yếm thắm mà vă nước hồ,
Vă đi vă lại anh đồ yêu đương.
(*) Chà : những cành
tre hay cành cây thả xuống chuôm ao để cho cá ở hay để rào đường lối : Thả
chà xuống ao; cắm chà ở ngoài bờ lũy.
90. NƯỚC NON LẬN ĐẬN
MỘT M̀NH
Nước non lận đận một ḿnh,
Thân c̣ lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ai kia cạn cho gầy c̣ con.
91. CÁI C̉ LẶN LỘI BỜ
SÔNG
Cái c̣ lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non.
Nàng về nuôi cái cùng con,
Để anh đi trẩy *, nước non Cao Bằng.
Chân đi đá lại dùng dằng,
Nửa nhớ Cao Bằng, nửa nhớ vợ con.
(*) Trẩy : Cất ḿnh đi xa : quân trẩy, trẩy hội, trẩy thủy.
92. CÁI C̉ LÀ CÁI C̉
KỲ
Cái c̣ là cái c̣ kỳ,
Ăn cơm nhà d́, uống nước nhà cô.
Đêm nằm th́ ngáy o o,
Chửa đi đến chợ đă lo ăn quà.
Hàng bánh, hàng bún bày ra,
Củ từ, khoai nước cùng là cháo kê.
Ăn rồi cắp đít ra về,
Thấy hàng chả chó lại lê trôn vào.
Chả này bà bán làm sao ?
Ba đồng một gắp lẽ nào chẳng mua.
Nói dối là mua cho chồng,
Đem đến quăng đồng, ngả nón ra ăn.
Thoạt là đau bụng lăm răm,
Về nhà đau quẳn đau quăn dạ dày.
Đem tiền đi bói ông thầy,
Bói ra quẻ này, những chả cùng nem.
Cô nàng nói dối đă quen,
Nào tôi ăn chả ăn nem bao giờ.
93. CON C̉ CON VẠC
CON NÔNG
Con c̣ con vạc con nông,
Ba con cũng béo vặt lông con nào ?
Vặt lông con vạc cho tao,
Hành răm nước mắm bỏ vào mà thuôn.
94. CON C̉ MÀ ĐI ĂN
ĐÊM
Con c̣ mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao,
Tôi có ḷng nào ông hăy sáo măng.
Có sáo th́ sáo nước trong,
Đừng sáo nước đục đau ḷng c̣ con.
95. CON C̉ LÀ CON C̉
QUĂM
Con c̣ là con c̣ quăm,
Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?
Có đánh th́ đánh sớm mai,
Chớ đánh chập tối, chẳng ai cho nằm.
96. CÁI C̉ CÁI VẠC
CÁI NÔNG
Cái c̣ cái vạc cái nông,
Sao mày dẵm lúa nhà ông hỡi c̣.
Không, không, tôi đứng trên bờ,
Mẹ con nhà nó đổ ngờ cho tôi.
Chẳng tin th́ ông đi đôi,
Mẹ con nhà nó c̣n ngồi đây kia.
97. CÁI C̉ LẶN LỘI BỜ
AO
Cái c̣ lặn lội bờ ao,
Hỡi cô yếm đào, lấy chú tôi chăng ?
Chú tôi hay tửu, hay tăm,
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày th́ những muốn trời mưa,
Đêm th́ những muốn đêm thừa trống canh.
98. CÁI C̉ LÀ CÁI C̉
CON
Cái c̣ là cái c̣ con,
Mẹ đi xúc tép để con ở nhà.
Mẹ đi một quăng đường xa,
Mẹ sà chân xuống phải mà con lươn.
Ông kia có cái thuyền nan,
Chở vào ao rậm xem lươn bắt c̣.
Ông kia chống gậy ḷ ḍ,
Con lươn thụt xuống, con c̣ bay lên.
99. CÁI C̉ CHẾT RŨ
TRÊN CÂY
Cái c̣ chết rũ trên cây,
C̣ con mở sách xem ngày làm ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
Chim ri ríu rít ḅ ra chia phần.
IV.
ĐỜI SỐNG NÔNG NGHIỆP – CÁC TẬP TỤC CŨ
100. VĂN CHƯƠNG PHÚ LỤC CHẲNG HAY
Văn chương phú lục chẳng hay,
Trở về làng cũ, học cày cho xong.
Sớm ngày vác cuốc thăm đồng,
Hết nước th́ lấy gàu ṣng tát lên.
Hết mạ ta lại quảy thêm,
Hết lúa ta lại mang tiền đi đong.
Nữa mai lúa chín đầy đồng,
Gặp về đập sảy bơ công cấy cày.
101. LÀNG TA PHONG
CẢNH HỮU T̀NH
Làng ta phong cảnh hữu t́nh,
Dân cư giang khúc như h́nh con long.
Nhờ trời hạ kế sang đông,
Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi.
Vụ năm cho đến vụ mười,
Trong làng kẻ gái người trai đua nghề.
Trời ra : gắng, trời lặn: về,
Ngày ngày, tháng tháng nghiệp nghề truân chuyên *.
Dưới dân họ, trên quan viên.
Công b́nh giữ mực cầm quyền cho thay.
Bây giờ gặp phải hội này,
Khi thời hạn hán, khi hay mưa dầm.
Khi thời gió băo ầm ầm,
Đồng điền lúa thóc mười phần được ba.
Lấy ǵ đăng nạp nữa mà,
Lấy ǵ công việc nước nhà cho đang.
Lấy ǵ sưu thuế phép thường,
Lấy ǵ bổ trợ đong lường làm ăn.
Trời làm khổ cực hại dân,
Trời làm mất mát có phần nào chăng.
(*) Truân-chuyên :
gian nan, vất vả.
102. KHÓ THAY CÔNG
VIỆC NHÀ QUÊ
Khó thay công việc nhà quê,
Cùng năm khó nhọc dám hề khoan thai.
Tháng chạp thời mắc trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư bắc mạ thuận ḥa mọi nơi.
Tháng năm gặt hái vừa rồi,
Bước sang tháng sáu nước trôi đầy đồng.
Nhà nhà, vợ vợ, chồng chồng,
Đi làm ngoài đồng sá kể sớm trưa.
Tháng sáu, tháng bảy khi vừa,
Vun trồng giống lúa, bỏ chừa cỏ tranh.
Tháng tám lúa rỗ đă đành,
Tháng mười gặt hái cho nhanh kịp người.
Khó khăn làm mấy tháng trời,
Lại c̣n mưa nắng bất thời khổ trông.
Cắt rồi nộp thuế nhà công,
Từ rày mới được yên ḷng ấm no.
103. THÁNG CHẠP LÀ
THÁNG TRỒNG KHOAI
Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng.
Ai ai cùng vợ cùng chồng,
Chồng cày vợ cấy trong ḷng vui thay.
Tháng năm gặt hái đă xong,
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy.
Năm nong đầy em xay em giă,
Trấu ủ phân, cám bă nuôi heo.
Sang năm lúa tốt tiền nhiều,
Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chồng.
Đói no có thiếp có chàng,
C̣n hơn chung đỉnh giàu sang một ḿnh.
CHÚ THÍCH: Cả hai bài
“Khó thay công việc nhà quê” và “ Tháng chạp là tháng trồng khoai” đều nói
lên những nỗi cực nhọc quanh năm của nhà nông. Thực là ăn nhịp với những
câu ca dao khác:
Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi đổ xuống như mưa ruộng cày.
hay:
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
104. THÁNG GIÊNG LÀ
THÁNG ĂN CHƠI
Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng ba th́ đậu đă già,
Ta đi, ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu ḅ,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.
Sớm ngày đem lúa ra ngâm,
Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi, ta ném ruộng ta,
Đến khi nên mạ, th́ ta nhổ về.
Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ-ngơi.
Cỏ lúa dọn đă sạch rồi,
Nước ruộng vơi mười, c̣n độ một hai.
Ruộng thấp đóng một gàu giai,
Ruộng cao th́ phải đóng hai gàu ṣng.
Chờ cho lúa có đ̣ng đ̣ng,
Bây giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.
Gặt hái ta đem về nhà,
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
CHÚ THÍCH : Bài này
tuy cũng nói lên những cực nhọc quanh năm của nhà nông nhưng cũng c̣n được
một tháng hưởng lạc:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
105. MỘT NĂM CHIA
MƯỜI HAI KỲ
Một năm chia mười hai kỳ,
Thiếp ngồi, thiếp tính khó ǵ chẳng ra.
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai rỗi-răi quay ra nuôi tằm.
Tháng ba đi bán vải thâm,
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về.
Tháng sáu em đi buôn bè,
Tháng bảy, tháng tám trở về đong ngô.
Chín mười cắt rạ đồng mùa,
Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng.
Anh ăn rồi anh lại nằm,
Làm cho thiếp phải quanh năm lo phiền.
Chẳng thà lấy chú lực điền,
Gạo bồ, thóc giống c̣n phiền nỗi chi.
CHÚ THÍCH: Đời sống
người nhà quê trong bài này đă thấy thoải mái hơn t́nh cảnh tả trong bốn
bài trước nhiều, v́ bên lợi tức công việc đồng ruộng c̣n thêm lợi tức
những công việc phụ khác, chăm tằm, buôn vải, buôn bè. Đời sống luân lưu
trong một năm như vậy vừa bớt vẻ cơ cực, vừa bớt vẻ nhàm chán của một công
việc duy nhất.
106. THÁNG GIÊNG CHÂN
BƯỚC ĐI CÀY
Tháng giêng chân bước đi cày,
Tháng hai văi lúa ngày ngày siêng năng.
Thuận mưa lúa tốt đằng đằng,
Tháng mười gặt lúa ta ăn đầy nhà.
107. THÁNG GIÊNG ĂN
TẾT Ở NHÀ
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội-hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhăn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
CHÚ THÍCH: Sự hưởng
lạc và phú túc của người nhà quê đi buôn thật trái ngược đến như thành mỉa
mai với đời sống của những người nhà quê theo nghề nông thuần túy.
108. TRỜI CHO CÀY CẤY
ĐẦY ĐỒNG
Trời cho cày cấy đầy đồng,
Xứ nào xứ nấy trong ḷng vui ghê.
Một mai gặt lúa đem về,
Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung.
109. ƠN TRỜI MƯA NẮNG
PHẢI TH̀
Ơn trời mưa nắng phải th́,
Nơi th́ bừa cạn, nơi th́ cày sâu.
Công lênh chẳng quản lâu lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.
110. TRÂU ƠI TA BẢO
TRÂU NÀY
Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
111. RỦ NHAU ĐI CẤY
ĐI CÀY
Rủ nhau đi cấy đi cày,
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
112. MỘT QUAN TIỀN
TỐT MANG ĐI
Một quan tiền tốt mang đi,
Nàng mua những ǵ hăy tính cho ra.
Thoạt tiên mua ba tiền gà,
Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.
Trở lại mua sáu đồng cau,
Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng.
Có ǵ mà tính chẳng thông,
Tiền rưỡi gạo tẻ, sáu đồng chè tươi.
Ba mươi đồng rượu chàng ôi,
Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng.
113. AO TO TA THẢ CÁ
CHƠI
Ao to ta thả cá chơi,
Hồ rộng nuôi vịt, vườn khơi nuôi gà.
Quanh năm khách khứa trong nhà,
Ao vườn sẵn đó lọ là t́m đâu.
114. LÍNH THÚ THỜI
XƯA
Ngang lưng th́ thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài.
Một tay th́ cắp hỏa mai,
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền.
Thùng thùng trống đánh ngũ liên,
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
115. BA NĂM TRẤN THỦ
LƯU ĐỒN
Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày th́ canh điếm, tối dồn việc quan.
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc măng mai,
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng?
Nước giếng trong cá nó vẫy vùng.
116. SÚC SẮC SÚC SẺ
Súc sắc súc sẻ,
Nhà nào, nhà này,
C̣n đèn, c̣n lửa,
Mở cửa cho anh em chúng tôi vào.
Bước lên giường cao,
Thấy đôi rồng ấp.
Bước xuống giường thấp,
Thấy đôi rồng chầu.
Bước ra đàng sau,
Thấy nhà ngói lợp.
Voi ông c̣n buộc,
Ngựa ông c̣n cầm,
Ông sống một trăm,
Thêm năm tuổi lẻ,
Vợ ông sinh đẻ,
Những con tốt lành.
Những con như tranh,
Những con như vẽ *
(*) Người ta thường đọc câu này là
“những con như rối”.
CHÚ THÍCH : Khoảng
nửa đêm ba mươi tết trẻ con nhà nghèo đi thành từng bọn đến cửa các nhà
xin tiền. Đứa đi đầu cầm một cái ống đựng tiền đă xin được lắc lên, lắc
xuống thànhg tiếng “súc sắc”, vừa lắc vừa hát bài chúc tụng này.
V
LINH TINH
117. LÁC ĐÁC MƯA NGÂU
Lác đác mưa ngâu,
Śnh sịch mưa ngâu,
Lá ngâu rụng xuống, bông lau phất cờ.
Nước trong xanh, lặng ngắt như tờ,
Một đàn cá lớn nhấp nhô đầu ghềnh.
118. TRĂNG BAO NHIÊU
TUỔI TRĂNG GIÀ
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già,
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non.
Trăng bao nhiêu tuổi trăng tṛn,
Núi bao nhiêu tuổi núi c̣n trơ trơ.
119. TRONG ĐẦM G̀ ĐẸP
BẰNG SEN
Trong đầm ǵ đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
CHÚ THÍCH: Nếu cây
tre đă từ lâu tượng trưng cho đức tính bất khuất của dân tộc Việt nam dưới
mọi giông băo lịch sử, th́ hoa sen cũng đă từ lâu được mặc nhiên chọn là
thứ “quốc hoa” tượng trưng cho tâm hồn thanh cao của dân tộc, không hề
biến tiết ở mọi hoàn cảnh.
120. CÔ KIA GÁNH NƯỚC
QUANG MÂY
Cô kia gánh nước quang mây!
Cho xin một gáo tưới cây ngô đồng.
Ngô đồng thêm tốt, thêm xanh,
Để cho chim phượng đậu cành so-le.
121. ĐỐ AI
Đố ai biết lúa mấy cây,
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng.
Đố ai quét sạch lá rừng,
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
122. ĐÈN KHOE ĐÈN TỎ
HƠN TRĂNG
Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng,
Đèn ra ngoài gió, c̣n chăng hỡi đèn.
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn,
Cớ sao trăng phải chui luồn đám mây?
DOĂN QUỐC SỸ
Sưu tập
|