QUYỂN BA
Phần 4d
THẦN THOẠI
( Tiếp Theo )
Việt Nam –
Trung Hoa
DOĂN QUỐC SỸ
Sưu tập
THẦN THOẠI LÔ LÔ
SÁNG TẠO LOÀI NGƯỜI
Kết Dơ (Thượng Đế) tạo ra trời trắng và đất đen và
cùng Ga-Gie lấy đất từ phương Tây qua phương Đông để
làm ra người, nhưng công việc c̣n dở dang th́ trời tối.
Qua ngày sau, họ thấy tượng nặn hôm qua đă bị ai phá
và hai đêm liền đều như thế. Họ nặn đến lần thứ ba rồi
để ư coi chừng. Đến nửa đêm Thần Đất lại. Thấy họ,
Thần Đất bảo : “Đất này là của tôi, nếu các người mượn
để nặn con người th́ trong bao nhiêu năm sẽ hoàn lại?”
Họ đáp : “Trong ṿng sáu mươi năm chúng tôi sẽ trả.”
Do đó con người chỉ sống trong khoảng sáu mươi năm rồi
phải chết để trả h́nh hài lại cho đất.
PHỤ CHÚ :
Ngụ ngôn con người chết, h́nh hài trở về với cát bụi
trong thần thoại Lô lô này gợi cảm biết chừng nào !
HAI NGƯỜI ĐẦU TIÊN LẤY NHAU
Hai người Nam, Nữ đầu tiên xuất hiện trên mặt đất
không có cha mẹ, v́ họ do đất nặn ra. Tự cho là hai
anh em, muốn lấy nhau, mỗi người đứng trên một ngọn
núi lăn xuống một ḥn đá. Đá của người con gái lăn
xuống dưới thấp, ḥn đá của người con trai lăn chồng
lên. Họ lại lăn hai cái sàng, kết quả cũng như trước.
Họ lại lấy mỗi người một chiếc giày tung lên không,
hai chiếc cùng rơi xuống dính liền với nhau. Hai người
lại đốt lửa trên hai quả núi, khói bay lên trời, quấn
quít lấy nhau.
Sau vụ thử ư trời lần thứ tư đó, hai người kết làm vợ
chồng. Ít lâu sau, người Nữ mang thai và đẻ ra một quả
bầu đầy hột, mỗi hột hóa thành một người.
HỒNG THỦY
Một gia đ́nh có bốn anh em : ba giai một gái. Lần đó
họ cày ruộng. Ngày hôm sau trở ra đồng th́ thấy những
luống cày dính liền với nhau phẳng phiu như cũ. Họ cày
đến ngày thứ ba cũng lại thấy như thế.
Th́ ra đến nửa đêm có ông già Nhi Gia, cầm gậy trắng
đến lấp những luống đă cày. Người anh cả muốn đánh,
người em thứ muốn bắt trói lại, nhưng người em út đă
chạy lại, ôn tồn hỏi duyên cớ.
Ông già đáp : “Các người cày ruộng làm ǵ nữa, vô ích,
lụt hồng thủy sắp tới nơi rồi, nước sẽ dâng đến tận
trời, loài người sẽ chết hết”.
Nạn lụt xảy ra, người anh cả ngồi trong một chiếc
trống bằng sắt, người em thứ ngồi trong một chiếc
trống bằng đồng, cả hai cũng bị chết ch́m. Người em út
cùng chị ngồi trong một chiếc trống bằng gỗ, mang theo
một quả trứng, như lời ông già đă dặn, đợi khi nào gà
nở lên tiếng kêu th́ hăy mở trống ra. Trống gỗ chở hai
người theo nước rút xuống, mắc ở trên cành một cây si
mọc ở lưng chừng sườn núi. Hai người phải nhờ đến một
cây tre cứu thoát cho. Khi xuống được mặt đất rồi,
người con trai mới nói với cây tre rằng : “Tôi không
có tổ tiên, vậy tôi sẽ thờ tre làm tổ”.
Từ đó, người Lô lô thờ tre làm vật tổ.
SO SÁNH THÊM VỚI THẦN THOẠI CAO NGUYÊN VÀ KẾT LUẬN
Trên đây là thần thoại Việt Nam và thần thoại đồng bào
miền núi quanh vùng từ Ḥa B́nh tới Trấn Ninh, cùng
chung một nét chính, đặc biệt là từ quả bầu hay bọc
trứng mà sinh ra các giống người. Khu địa bàn này là
cái nôi thuở ban đầu của dân tộc.
Trên con đường Nam tiến, trong gia đ́nh dân tộc mở
rộng, chúng ta có thêm đồng bào cao nguyên : Rốc Lai,
Srê, Ba Na, Xê Đăng, Ra Đê.
Căn cứ theo bản văn của ông Hoàng Trọng Miên (sách đă
dẫn) th́ trong các thần thoại cao nguyên, chúng ta
cũng nhận diện thấy đủ các nét đại đồng của thần thoại
thế giới.
Nạn Hồng Thủy Và Anh Em Lấy Nhau.
Thần thoại Rốc Lai và Ba Na đều kể nạn hồng thủy.
Riêng trong thần thoại Ba Na cũng có truyện hai anh em
v́ nằm trong một cái trống mà sống sót sau nạn hồng
thủy, và sau đó buộc ḷng phải lấy nhau v́ trên mặt
đất không c̣n ai nữa.
Cây, Cột, hay Tháp Cao Tới Trời.
Về cây, cột hay tháp cao chạm tới trời th́ thần thoại
Ba Na kể khi con cháu ông bà thủy tổ đă đông đảo, họ
mới xây một nhà gác cao nóc gần tới trời. Người anh cả
ngồi trên nóc để chỉ huy công việc, ra lệnh cho các
em. Nhưng từ đó, tiếng nói của người anh cả vang
xuống, không ai hiểu được nữa. Anh cả bảo một đằng,
các em làm một nẻo. Anh cả quát mắng, các em nhăn răng
cười v́ mỗi người đă nói một thứ tiếng khác. Anh cả
xuống đuổi đánh, các em chạy mỗi người một ngả, rồi ở
đâu nói tiếng đấy, do đó mà ngày nay có các thứ tiếng
Ba Na, Da Rai, Xê Đăng, Ra Đê, Rốc Lai …
(Có thể so sánh với truyện xây tháp lên trời của thần
thoại Mèo).
Giải Thích Những Hiện Tượng Mặt Trời, Trăng, Sao:
Về mặt trời, mặt trăng, các v́ sao, những vụ nhật
thực, nguyệt thực, thần thoại Sré kể là thoạt nàng Mặt
Trăng cũng chiếu sáng rực rỡ như nàng Mặt Trời. Người
ta phải lấy tro trát vào Mặt Trăng cho bớt nóng. Trăng
rằm là lúc nàng đưa mặt ra để rửa mặt, trăng thương
huyền hay hạ huyền là lúc nàng ngoảnh mặt sang một
bên, và trăng đầu mùa là lúc nàng đang quay lưng đi.
Thần thoại Ba Na kể là hai chị em Mặt Trăng Mặt Trời
cùng lấy một con cá Bơ làm chồng chung. Sau đôi bên bỏ
nhau. Người chồng cá thỉnh thoảng lại chạy theo nuốt
một trong hai người vợ cũ. V́ vậy sinh ra những vụ
nhật thực, nguyệt thực.
Thượng Đế và Thủy Tổ Loài Người.
Tất nhiên thần thoại cao nguyên đều có phần chính yếu
là những truyện kể về Thượng đế sáng tạo vũ trụ, hay
Thủy tổ ḍng giống.
Theo thần thoại Rốc Lai th́ vị thần sáng tạo ra trời
đất và muôn loài tên là Bung. Thủy tổ của dân miền Cao
nguyên là Sọt Đen, con của Mặt Trời. Nguyên do : Trời
(Trụ) và Đất (Tiah) lấy nhau đẻ ra nàng Binh. Nàng
Binh đang ngủ, Ngài (Mặt Trời) ăn trầu, đánh rớt bă
trầu lên người Binh làm Binh thụ thai, sinh ra Sọt
Đen. Sọt Đen lấy vợ, đẻ con, sinh ra các giống dân
miền cao nguyên ngày nay.
Theo thần thoại Ba Na thuở hỗn mang chưa phân biệt
trời đất, thoạt có hai vị thần quyền phép vô cùng là
Thần Nam (Bok Kơi Dơi) và Thần Nữ (Iă Kon Keh). Hai vị
ấy chia nhau tạo lập ra vũ trụ trời đất, trăng sao.
Những công việc ấy làm xong, Thần Nam và Thần Nữ mới
phối hợp cùng nhau sinh được ba con, một con được giữ
lại làm thần trên trời (Iă Pôm), c̣n hai con cho xuống
làm người gọi là Iă Bok (Bà ông), tức là tổ tiên loài
người.
Theo thần thoại Ra Đê th́ đứng đầu thế giới thần linh
là một vị thần tối cao ngự trị trong một ngôi nhà rực
rỡ trên thượng tầng mây xanh, tức là Trời (Aê Diê).
Dưới quyền của Trời là những thần khác, mỗi vị có một
phận sự trong đời sống của con người miền núi, và ở
một chỗ nhất định trên trời, dưới đất, hay trong ḷng
đất.
Đặc biệt thần thoại Xê Đăng, có sự tích nữ thần Hoa
Lan (Thủy mẫu các bộ lạc cao nguyên) được kể lại rất
văn vẻ với nhiều t́nh tiết kỳ thú.
Tại một làng giữa rừng, có một mụ đàn bà độc ác, xấu
xí, chuyên giao thiệp với ma quỷ, tên là Mụ Lông. Một
hôm, Mụ Lông đi t́m trái cây để ăn, bắt gặp một con
khỉ biết nói tiếng người. Mụ định giết, khỉ nói nó bất
tử nên không ai giết được nó. Mụ Lông hỏi tại sao nó
nói được tiếng người và tại sao nó bất tử, th́ con khỉ
trả lời : “Tôi là hồn một đứa bé ngày xưa bị một mụ
thầy mo giết chết để hút máu, moi ḷng ăn. Thần linh
tức giận, mới bắt mụ thầy mo hóa là khỉ, rồi cho hồn
tôi nhập vào”.
Mụ Lông dụ dỗ con khỉ về hầu hạ mụ trong một năm rồi
mụ sẽ làm nó trở lại thành đứa con gái xinh đẹp. Hồn
thơ ngây ở trong thân khỉ nhận lời. Song nào Mụ Lông
có giúp ǵ cho nó, trái lại hành hạ đánh đập, chửi
mắng nó, bắt nó nhịn đói, nhịn khát và làm việc không
ngừng.
Chẳng bao lâu, dân làng đều biết Mụ Lông có nuôi một
con khỉ làm lụng siêng năng như một người đàn bà, khôn
ngoan biết nói tiếng người và trường sinh bất tử. Biết
những hành vi ác độc của Mụ Lông, trai trẻ trong làng
mới bàn bạc với nhau, bày mưu gài bẫy bắt được mụ,
mang đi bỏ mụ ở một chỗ thật xa cách làng và cứu con
khỉ. Con khỉ nói với những ân nhân của nó là nó thề
hầu hạ Mụ Lông th́ nó phải giữ lời thề đó trước thần
linh, c̣n Mụ Lông đă hứa sẽ giúp nó trở lại thành
người con gái xinh đẹp, tất Mụ Lông cũng không được
sai lời hứa.
Bỗng nhiên gió nổi lên, cả rừng xanh xao động dữ dội,
các thân cây cổ thụ kêu răng rắc, rồi tự cây thần phát
ra một tiếng nói vang như tiếng sấm : “Bớ khỉ con, hăy
dời bỏ nhà mụ quỷ quái ác này đi, hồn mụ sắp phải sa
hỏa ngục, con hăy đi về làng sống với người ta, rồi
chẳng bao lâu con sẽ được toại niềm mong ước. Hỡi dân
làng, các con hăy v́ t́nh thương mà che chở cho nó để
nó trở thành người như các con!”
Con khỉ về sống với dân làng ít lâu vẫn giữ nguyên lốt
khỉ. Đàn bà trong làng bàn tán, cho nó chỉ là là tôi
tớ của ma quỷ. Và khỉ lại bị những người ấy hành hạ
tàn nhẫn như khi ở với Mụ Lông, duy đám trai trẻ trong
làng là c̣n tin ở lời Thần Cây và thương mến con khỉ.
Một lần, có mấy người đàn bà giữ con khỉ để ép cho một
con chó đực; nhảy nó không xong, mới lượm đá thi nhau
ném. Bỗng nhiên gió cuồn cuộn nổi lên., chuyển động cả
núi rừng, rồi tiếng nói như sấm của Thần Cây vang lên
: “Bớ khỉ con, nạn nhân của những kẻ hung ác mà ta
nguyền rủa, con hăy chạy trốn đi, thần linh sẽ che chở
và chỉ đường con đi”.
Và con khỉ đă bỏ chạy vào đêm tối. Nó đi măi cho đến
lúc trời hửng sáng, lần bước theo ánh sao lấp lánh
trên cao.
Hôm ấy, mặt trời mọc lên đỉnh núi chậm hơn thường
ngày, chói lọi khác thường. Bầu trời đỏ rực, mây như
lửa, gió ngừng thổi, suối không chảy nữa. Dân chúng
kinh hăi ngồi sững sờ trước sàn hiên, nh́n hiện tượng
khác lạ trên trời.
Một ông lăo chống gậy tre t́m đến nhà Bang, một chàng
trai tù trưởng trẻ đẹp, gọi dậy cho hay : “Một cô gái
đồng trinh, trẻ đẹp, từ trên cành cây xuống, từ trong
hoa nở ra, đang đi về phía tù trưởng. Vậy tù trưởng
hăy tới đó mau, đi một ḿnh, đừng cho ai theo, giả
cách là một kẻ nghèo đi săn bắn để rước con gái thần
về làm vợ.”
Tù trưởng Bang vội vàng sửa soạn ra đi. Mặt trời trở
lại với ánh sáng mọi ngày, mây thôi đỏ màu lửa rực,
gió bắt đầu vi vu, nước suối lại róc rách chảy, chim
rừng ca hót trở lại …
Trong khi ấy, con khỉ vừa ra khỏi rừng, miệng khô bỏng
cả ḿnh và bốn chân rớm máu sau một đêm băng rừng vượt
núi. Nó vội vă tiến bước tới một ḍng nước trắng bạc
để giải khát.
Ḍng sông này là giang sơn của Sét Sa, con rắn chúa
các thủy động và sông ngầm. Sét Sa ở dưới một hốc đá
sâu, làm chủ bao nhiêu vàng bạc theo các ḍng nước đưa
đến. Nó mài kim cương trên đá thác nước, gọt ngọc biếc
dưới trăng và nhuộm các thứ ngọc theo sắc da trời khi
đỏ, khi hồng, khi xanh, hoặc đủ màu sắc cầu vồng. Sét
Sa thường lệnh các thần linh quấn những kẻ hung ác d́m
xuống đáy vực sâu.
Lúc con khỉ sắp cúi ḿnh xuống ḍng nước để giải khát
th́ một bàn tay xương xẩu chụp lấy cổ nó, quật ngửa
ra. Đó là Mụ Lông. Mụ nguyền rủ khỉ là bội ước. Mụ lấy
chiếc gậy cong queo đánh khỉ không tiếc tay để bắt nó
về. Mụ nhổ toẹt một băi nước trầu đỏ ḷm trên mặt nước
sông, mặc dầu luật lệ của núi rừng cấm đoán người ta
không được làm vẩn đục nước trong. Thế là ḍng sông
nổi sóng, mặt nước mở ra, con rắn khổng lồ Sét Sa theo
sóng hiện lên, vươn ḿnh tới đớp lấy Mụ Lông và con
khỉ cứng đơ trong kinh hoàng. Đúng lúc một trần cuồng
phong nổi lên, xé tan mây mù, thổi mạnh cây cối ngả
nghiêng, rồi tiếng nói của Thần Cây vang động bảo Rắn
Sét Sa trước khi nuốt xác Mụ Lông và xác con khỉ (Tức
mụ thầy mo đă giết đứa trẻ), hăy trả lại ba linh hồn
cho Thần Cây : linh hồn cô bé thơ ngây, linh hồn Mụ
Lông và linh hồn mụ thầy mo.
Sét Sa tuân lệnh Thần Cây, rồi nuốt chửng xác Mụ Lông
và xác con khỉ.
Hồn Mụ Lông và hồn mụ thày mo bị biến thành hai loài
ác điểu sống bằng thịt thối, xác chết và đồ dơ bẩn.
C̣n lại hồn đứa bé, Thần Cây mới cho theo ánh sáng mặt
trời nhập vào cây hoa thơm đẹp nhất trong các loài
hoa, đặt tên là Hoa Lan (Ri A Đa). Thần lấy nhụy cái ở
trong hoa làm ra thân h́nh đàn bà, lấy hai giọt sương
long lanh làm thành đôi mắt, lấy tiếng nước suối chảy
trong trẻo làm thành giọng nói, lấy hai nụ hoa hồng
làm bầu ngực, lấy một đóa hồng nở làm thành miệng và
lấy cỏ tiên làm thành tóc.
Từ hư không, Thần Cây đă dùng ánh sáng và hoa mà tạo
nên một người con gái vô cùng xinh đẹp và hiền thục.
Nàng bừng mắt dậy giữa rừng xanh, soi bóng ḿnh trên
mặt nước, ḷng hân hoan, chân bước đi trên cỏ rừng,
ngỡ ngàng như một con nai tơ. Đang lúc nàng đi về phía
Tây th́ gặp một chàng trai trẻ, tay cầm nỏ đi lại.
Chàng hỏi :
- Hỡi người con gái, nàng là ai mà đi một ḿnh trên
đường đất của ta?
Nàng đáp :
- Tôi là Ri A Đa, con gái của Hoa Lan, đi trên đường
chư thần chỉ dẫn. Thế c̣n người là ai, hỡi chàng trai
trẻ?
- Ta là Bang, tù trưởng đất này.
- Người là tù trưởng thật ư?
- Phải, ta là tù trưởng Bang, theo lời thần bảo, đi
đến gặp người con gái từ hoa và ánh sáng sinh ra.
Thế rồi đôi trai gái d́u nhau về. Hai người ở với
nhau, sinh được nhiều con cái, thành tổ tiên các bộ
lạc cao nguyên ngày nay. Và Hoa Lan được dân thờ xem
là Mẹ của dân miền cao nguyên.
Trên đây là tóm tắt những nét chính của các thần thoại
cao nguyên : Thực ra cao nguyên cũng là miền núi nhưng
soạn giả muốn dùng danh từ này để phân biệt với thần
thoại của các đồng bào thiểu số Mường, Mèo, Mán, Thái,
Kha, Lô Lô … trên. Thần thoại tại “khu nôi” của dân
tộc này (từ miền Nam Ngũ Lĩnh tới Trấn Ninh) có chung
một nét đặc thù là huyền thoại tự trái bầu hay bọc
trứng mà sinh ra các giống người. So sánh với thần
thoại cao nguyên, tuyệt nhiên không gặp truyện nào
dính líu đến h́nh ảnh trái bầu, quả trứng nữa.
Nét đại đồng và nét tiểu dị được ghi nhận làm phần kết
thúc cho thần thoại Việt Nam, thần thoại đồng bào miền
núi Bắc Việt và thần thoại đồng bào cao nguyên Nam
Trung Việt là như vậy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Henri Roux (Colonel), “Quelques Minorités Ethiniques
du Nord Indochine”, II P’u noi. France Asie – 92-93
(Janvier Février, 1954), 253-95.
Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư I. Thần
thoại. Saigon : Quốc Hoa, 1959.
Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư II. Cổ
Tích. Saigon : Văn Hữu Á Châu, 1960.
Lê Xuân Khoa, Nhập Môn Triết Học Ấn Độ. Saigon : Bộ
Quốc Gia Giáo Dục, 1965.
Lư Tế Xuyên, Việt Điện U Linh Tập. Saigon: Khai Trí,
1961. (Bản dịch Lê Hữu Mục)
Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân. Saigon : Mặc Lâm, 1968.
Trần Ngọc Ninh, “Huyền Thoại Việt Nam”. Tân Văn, 13
(tháng 5,1969), 1-12. Tân Văn, 14 (tháng 6, 1969),
25-36.
Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam Chích Quái. Saigon : Khai Trí,
1961 (?) (Bản dịch Lê Hữu Mục).
THẦN THOẠI TRUNG HOA
VÀI NÉT TỔNG LUẬN
Các học giả Tây phương chia lịch sử Trung Hoa ra làm
hai phần, thượng cổ và cận đại, ranh giới của hai phần
đó là đời Hán, từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên tới
thế kỷ thứ hai sau công nguyên v́ kể từ đời Hán với sự
chinh phục lân bang, mở rộng bờ cơi, Trung Hoa mới
thực sự tiếp thụ nhiều nền văn hóa ngoại lai. Đạo Phật
bắt đầu du nhập Trung Hoa cũng kể từ thời đại này.
Những thần thoại soạn giả tuyển chọn sau đây đều là
những thần thoại của thời Trung Hoa thượng cổ, chưa bị
pha trộn bởi màu sắc một nền văn hóa ngoại lai nào.
NGUỒN GỐC
Thoạt có thể nói có hai nguồn gốc cung cấp tài liệu
thần thoại Trung Hoa :
a. Những hàng chữ chép trên xương, trên mai rùa, trên
các đồ đồng tế tự …
b. Những sách lưu trữ trong thư khố.
Tuy nhiên, tài liệu chính là sách lưu trữ trong thư
khố, c̣n những hàng ghi chú khắc trên xương, trên mai
rùa, trên các đồ tế tự không giúp được bao nhiêu về
tài liệu thần thoại.
Trở về những sách lưu trữ trong thư khố cung cấp tài
liệu thần thoại, chúng ta cần ghi nhận điều này :
Tất cả các sách Trung Hoa đều được sao đi chép lại
nhiều lần, nhiều khi những lời bàn của hậu thế xen vào
nguyên bản. Thêm một sự kiện này : nếu sách được Nho
gia chép lại thường bị tước bỏ nhiều nét hoang đường
hoặc quái đản (và chính đó mới là đặc tính nên thơ của
thần thoại), thay vào bằng cách nhân hóa những thần
linh, nhiều khi uốn nắn những t́nh tiết thần thoại để
dễ giải thích cho phù hợp với tư tưởng triết học của
phe ḿnh.
Thái độ của Nho gia cũng dễ hiểu : đạo Khổng vốn chủ
trương nhập thế giúp đời, nên Nho gia bao giờ cũng
nhiễm tinh thần thực tiễn và duy lư (như tinh thần
khoa học Tây phương bây giờ). Tỉ như Tư Mă Thiên, đời
Hán Vũ Đế, khi viết Sử kư cũng tước bỏ những truyền
thuyết hoang đường về các đời Phục Hy, Thần Nông,
Hoàng Đế.
Chúng ta, hăy xem : song song với số thần thoại Trung
Hoa thuở khai thiên lập địa, là kiến trúc siêu h́nh
ghi trong Kinh Dịch : Thái cực sinh lưỡng nghi; lưỡng
nghi sinh tứ tượng; tứ tượng biến hóa vô cùng.
Ghi về sự tích trị thủy của hai cha con ông Cổn và ông
Vũ, các Nho gia chỉ cốt đề cao tư tưởng thuận tính tự
nhiên th́ thành (Ông Vũ), ngược tính tự nhiên th́ bại
(Ông Cổn trước đó). Kinh Thư ngoài lời ghi vắn tắt của
Khổng Tử, thiên Hồng Phạm chép lời Cơ Tử:
“Tôi nghe sự tích ông Cổn đắp đê làm bế tắc hồng thủy,
làm loạn mất thuận tính của ngũ hành. Trời bất b́nh
không ban cho phép lớn nói về chín mối thự tự của tự
nhiên, cho nên ông Cổn đến phải chết ức. Ông Vũ là con
được nối nghiệp phục hưng, trời bèn ban cho phép lớn
Hồng Phạm, Cửu Trù, luật tự nhiên lại tiến hóa theo
thứ tự”.
Sách Mạnh Tử, thiên Đằng Văn Công chép:
“Đương đời vua Nghiêu, thiên hạ chưa b́nh định, nước
lũ chảy tung hoành, đầy rẫy, cỏ cây rậm tối, chim
muông phồn thịnh, năm thứ thóc chưa thành thục, chim
muông ở lẫn với người, những móng thú, dấu chim bừa
băi cả chốn Trung Quốc … Ông Vũ đào chín cái sông khởi
sông Tế, sông Loa cho chảy về biển, xẻ sông Như, sông
Hán, sông Hoài, sông Tứ cho chảy về sông Giang, rồi
sau chốn Trung Quốc mới có thể cày cấy được mà ăn.
Đương thời bấy giờ ông Vũ tám năm kinh lư việc nước,
ba lần qua cửa nhà ḿnh mà chẳng kịp vào …”
Kể truyện vua Vũ trị thủy như vậy thực hoàn toàn như
truyện các minh quân hiền triết đương thời. Dời vùng
ánh sáng chói chang lư trí của Nho gia, bước vào thế
giới huyền thoại của nhân gian chúng ta gặp một ông Vũ
khác hẳn (sẽ đọc sau đây)
Đào Duy Anh khi viết mấy trang sơ lược về truyền
thuyết đời thượng cổ Trung Hoa cũng là viết theo những
tài liệu đă thế nhân hóa, hợp lư hóa thần thoại cổ
Trung Hoa. Xin lược trích:
Theo sách Sử kư của Tư Mă Thiên th́ tam hoàng là Thiên
Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng. Lại có thuyết cho
Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng là Toại Nhân, Thần
Nông, Phục Hy. Toại Nhân sinh lửa, lửa do mặt trời nên
thác về trời; Phục Hy xếp đặt việc người nên thác về
người; Thần Nông dạy người làm ruộng nên thác về đất.
Toại Nhân (người lấy lửa) dạy người dùng lửa tức chỉ
thời đại người mới phát minh được lửa. Phục Hy (người
nuôi súc) kết dây đan lưới, dạy người săn thú và đánh
cá, lại dạy người nuôi súc để làm thịt mà nấu ăn, cho
nên cũng gọi là Bào Hy (nấu thịt thú); đó là chỉ thời
đại văn hóa loài người đă do trạng thái đánh cá và săn
bắn mà tiến lên trạng thái du mục. Thần Nông th́ làm
ra cày cuốc, dạy dân làm ruộng, họp chợ cho người ta
giao dịch; đó là chỉ thời đại mà văn hóa đă tiến lên
đến tŕnh độ canh nông rồi.
Tiếp theo Tam Hoàng là Ngũ Đế. Thực ra th́ tên Ngũ Đế
cũng không phải là tên vua mà chính là tên các thị tộc
(clan) đời xưa. Thuyết Ngũ Đế là lịch sử hoang đường
của Hán tộc.
Theo truyền thuyết th́ Hoàng Đế là thủy tổ của Hán tộc
đánh Xi Vưu là tù trưởng của Miêu tộc để chiếm miền
lưu vực sông Hoàng Hà mà vào bản bộ của Trung Quốc.
Theo một vài tác giả th́ Hoàng Đế lănh đạo Hán tộc tự
phía Nam miền Thiên Sơn đến miền Cam Túc vào khoảng
giữa thiên nhiên kỷ thứ ba trước kỷ nguyên. Ở đời
Hoàng Đế văn hóa đă khá, người ta đă biết dùng xe cộ
(Hiên Viên) làm nhà cửa và dệt cửi, (Hoàng Đế c̣n tên
là Hiên Viên Thị).
Hai đời Chuyên Húc và Đế Cốc không thấy truyền có việc
ǵ to lớn.
Đến đời Nghiêu, Thuấn th́ có việc nhường ngôi. Sử kư
chép rằng vua Nghiêu ở ngôi bảy mươi năm, nhường ngôi
cho Tứ Nhạc; nhưng Tứ Nhạc không chịu, vua Nghiêu bèn
xuống lệnh cử người quư thích cùng người ẩn dật; dân
chúng đều cử Ngu Thuấn. Vua Nghiêu bèn đem hai con gái
gả cho và nhường ngôi.
Vua Nghiêu họ là Đào Đường, tên ấy có ư nghĩa thời bấy
giờ người ta đă biết nung đồ đất.
Bấy giờ có nạn hồng thủy. Vua Nghiêu sai Cổn trị thủy,
chín năm mà không thành công, Nghiêu bèn giết Cổn và
giao việc ấy cho con Cổn là Vũ. Vũ ra sức suốt mười ba
năm mới thành công.
Sau vua Thuấn thấy Vũ là người có công và đức bèn
nhường ngôi cho làm thiên tử.
Vua Vũ ở ngôi tám năm, thấy con là Khải vốn là người
có đức nên truyền ngôi cho. Sau đó Khải cũng theo
gương cha mà truyền ngôi cho con ḿnh là Thái Khang,
thế là gây mối đầu cho chế độ quân chủ thế tập*.
Cả quan niệm về hoàng thế, đế thế, vương thế và bá thế
của Nho gia nếu đem so với quan niệm bốn đại kỷ nguyên
trong kiếp vũ trụ kalpa của thần thoại Ấn Độ, chúng ta
càng thấy rơ : Cùng ư niệm sự sa đọa tiệm tiến của con
người từ hoàng kim thời đại đến hôn ám thời đại, nhưng
cái nh́n của Nho gia là cái nh́n thực tế của những
chính khách, chẳng hề vương một chút thần thoại nào.
Hoàng thế, đế thế, vương thế được xếp vào hạng tam
lược. Tam lược là thượng lược, trung lược và hạ lược.
Thượng lược là Hoàng thế, như mùa xuân; Khởi nguyên,
Hoàng thay trời trị dân, đời thuần nguyên thực thà,
chính trị thanh tịnh, tự nhiên không làm ǵ mà đời vẫn
thịnh trị, chẳng phải nói mà dân tin, chẳng giận mà
dân kính sợ, cây cỏ xinh tươi.
Trung lược là Đế thế như mùa hạ; Đế nối Hoàng trị dân.
Đời vẫn c̣n thuần nguyên mà khôn hiền, chính trị có
đặt ra làm v́, nhưng không phải ra uy ǵ đến dân mà
vẫn thịnh trị, dân không nói dối, cây cỏ tốt tươi.
Trong Bắc Sử ở thiên Tam Hoàng Kỷ Đường Nghiêu có một
đoạn nói về đời Nghiêu Thuấn, tức Đế thế như sau:
“Vua Nghiêu dạo chơi đến một ngă tư đường đẹp tốt; có
một ông lăo ngậm cơm bỡn cợt; ông đánh trống bụng mà
du chơi, tay đánh sênh mà hát rằng :
Mặt trời mọc th́ đi ra làm việc,
Mặt trời lặn th́ nghỉ,
Cầy ruộng mà ăn, đào giếng mà uống,
Sức của vua có ǵ với ta thay !
Vua Nghiêu dạo chơi có ư là thân dân, ḥa ḿnh với dân
thuần hậu không có sự phản trắc oán giận. Ngă tư đẹp
tốt tượng trưng cho thiên nhiên phồn thịnh; ông lăo
vừa đi vừa du hí biểu tượng đời thái b́nh đầy đủ về
vật chất, thuần hậu về đạo tâm, hoan hỉ về tâm lư; câu
ca của ông lăo mô tả đời sống thanh bạch, khỏe mạnh
vui tươi, tự do và ḥa hợp với thiên nhiên.
Hạ lược là vương thế, như mùa thu; Vương nối Đế trị
dân, đời thuần nguyên hơi loăng. Người khôn ngoan sắc
sảo, chính trị có thi hành nhưng không tội lỗi mấy;
h́nh chính khoan dung đời được thịnh trị nhưng có khi
phải chinh phạt.
Bá thế th́ không được đứng vào tam lược, v́ bá thế là
đời điêu bạc giả dối, dân quỷ quái; chính trị nghiêm
khắc; sát phatỉ có nhiều, h́nh tội cũng lắm, thuế lệ
công dịch cũng nặng. Bá thế như mùa đông rét, cây cỏ
héo rụng. (Xin đọc và so sánh Kalpa, quyển 3a, Thần
Thoại Ấn Độ).
Sau khi đă tŕnh bày một cái nh́n tổng quát về thần
thoại Trung Hoa, những thần thoại được sưu tầm sau
đây, soạn giả đều cố gắng giữ càng nhiều những nét
hoang đường cổ sơ càng hay. Về thứ tự, dĩ nhiên cũng
xin đi từ những thần thoại khai thiên lập địa rồi mới
tới thuở an bài thế giới và đời sống.
(*) Xin đọc : Đào Duy Anh, Trung Hoa Sử Cương (Saigon
: 1954), trang XVII-XXI.
THUỞ KHAI THIÊN LẬP ĐỊA
Truyện Ông Bàn Cổ
Thuở hỗn mang chưa phân trời đất chi cả, chỉ có h́nh
thái từa tựa quả trứng gà. Tự trong trứng sinh ra ông
Bàn Cổ. Trong khoảng mười tám năm, trứng nguyên thủy
đó mở ra, chất âm nặng và thô lắng xuống thành đất,
chất dương nhẹ và thanh dâng lên thành trời. Mỗi ngày
trời lên cao mười bộ (mỗi bộ dài om 324), đất lún
xuống mười bộ và Bàn Cổ cũng mỗi ngày cao lên mười bộ.
Trong mười tám ngàn năm, thân h́nh Bàn Cổ cao lớn nối
liền trời đất.
Khi Bàn Cổ chết, thân h́nh ông thành các bộ phận của
hoàn vũ. Đầu ông thành những rặng núi cao; đôi mắt ông
thành mặt trời, mặt trăng; mỡ máu thành sông ng̣i,
biển cả; lông tóc thành cây cỏ; răng và xương thành đá
và các kim loại; chấy rận thành người *
CHÚ THÍCH: Theo sách “Ngũ Vận Lịch Niên Kư” th́ lúc
ban đầu trời đất mông lung, hỗn độn, sau khi chia ra
đất, trời (càn khôn), phân bố nguyên khí âm, dương. Âm
dương điều hợp mà nảy sinh ra người đầu tiên là Bàn
Cổ.
Theo sách “Thông Giám Ngoại Kỷ” của Lưu Thứ th́ Bàn Cổ
Thị cũng gọi là Hồn Đôn Thị.
(*) Theo P. Grimal, Mythologies des Montagnes, de
Forêts et des Iles (Paris, 1963), pp. 122-24.
Mặt trời
Có mười mặt trời mang h́nh là những con quạ lửa. Hàng
ngày bà mẹ của mười mặt trời đem lũ con đến tắm rửa ở
một cái hồ miền cực Đông. Gần hồ là một cây dâu cực
lớn, rỗng ḷng (cây Khổng Tang hay Phù Tang).
Sau khi tắm rửa xong, chín con leo lên các cành cây
Khổng Tang; riêng đứa đến phiên làm việc th́ leo lên
cành cao nhất, rồi bước vào một chiếc xe do sáu con
long mă kéo, chính bà mẹ cầm cương. Cuộc hành tŕnh
chấm dứt vào buổi chiều khi xe tới ngọn cây Nhược, một
cây cổ thụ mọc ngay bên bờ con sông lớn trên ngọn núi
miền cực Tây. Cổ thụ này đặc điểm là có hoa đỏ và
chiếu sáng ban đêm (ư hẳn ám chỉ các v́ sao).
Những huyền thoại khác chung quanh mặt trời có thể kể
: truyện Khảo Phủ chạy đua với mặt trời, truyện Hậu
Nghệ bắn mặt trời (xem dưới đây). Một huyền thoại khác
nói là trong mặt trời có con quạ vàng (kim ô) ba chân
ở. (Con kim ô này vừa là biểu trưng, vừa là nguyên lư
tác động của mặt trời. Mặt trời là lửa, tức dương).
Mặt trăng
Có mười hai mặt trăng thay phiên nhau trên ṿm trời
trong mười hai tháng. Cũng như mặt trời ban ngày, mặt
trăng ban đêm di chuyển trên ṿm trời bằng xe, nhưng
không phải do bà mẹ cầm cương. Mười mặt trời và mười
hai mặt trăng (tượng trưng thập can, thập nhị chi ? )
đều do một mẹ sinh ra cả.
Có huyền thoại cho rằng trong mặt trăng có con thỏ
ngọc ở, một huyền thoại khác, thay v́ thỏ lại bảo là
có con thiềm thừ (cóc). Sau này c̣n một huyền thoại
khác khá phổ thông về mặt trăng là huyền thoại Hằng
Nga, vợ Hậu Nghệ (đọc dưới đây).
Thiên Đ́nh và Các V́ Sao. Truyện Ngưu Lang Chức Nữ
Thiên đ́nh nơi Thượng Đế ngự được thiết lập tại chính
cḥm sao Đại Hùng Tinh. Trước cửa thiên đ́nh có con
chó ngao hung dữ đi đi lại lại canh giữ (tức sao
Sirius). Các cḥm sao khác trên ṿm trời đều là những
thiên quan giúp việc triều chính bên Thượng Đế.
Sao Ngưu (cḥm sao Aigle) và sao Chức (cḥm sao Lyre)
ở đối diện hai bên bờ sông Ngân Hà, nên có huyền thoại
cặp vợ chồng Ngưu Lang, Chức Nữ. Tục truyền Chức Nữ
hầu Thượng Đế, chăm lo dệt cửi không bỏ th́ giờ điểm
trang. Thượng Đế thấy vậy, thương t́nh gả cho Khiên
Ngưu là kẻ chăn trâu của người. Hai người thương yêu
nhau bỏ phế việc trời. Trời mới đày mỗi người ở một
bên sông Ngân Hà. Năm năm cứ vào ngày mùng bảy tháng
bảy, lũ quạ ô thước tự hạ giới bay lên bắt cầu để Chức
Nữ qua sông Ngân gặp chồng. (Ngày đó hai cḥm sao ở
vào vị trí gần nhau nhất).
Hải thần
Thần Bể có chân tay như người, nhưng ḿnh là ḿnh con
cá ḱnh (cá ông voi) cực lớn, dài không biết bao nhiêu
dặm. Thần cưỡi hai con rồng. Khi nào nổi giận, Thần
bèn hóa thành con chim Bằng khổng lồ cất cánh bay lên
che kín cả ṿm trời và bay một mạch sáu tháng tới Nam
Hải mới hạ cánh.
Năm Đảo Bồng Lai
Tại Biển Đông có năm đảo Bồng Lai, chốn trường sinh
bất tử của các tiên ở. Năm đảo này nổi trên mặt bể,
mỗi đảo được Thượng đế cắt cử ba con rùa lớn thay
phiên nhau neo giữ bên dưới để đảo khỏi trôi về phía
Tây va phải đất liền. Nhưng trong số mười lăm con rùa
đó, sáu con bị thần Long Bá câu mất, thành thử hai đảo
không có rùa neo giữ bên dưới, trôi dạt lên Bắc cực
rồi đắm mất. Năm đảo v́ vậy chỉ c̣n ba. Những người đi
bể mỗi khi nh́n xa gặp khoảng chân trời có mây ngũ sắc
che, thường cho đấy chính là Bồng đảo. Họ không thể
chèo thuyền tới được v́ hễ chèo gần tới th́ Bồng đảo
lại như bị gió thổi đưa đi xa.
Đất và Núi
Năm núi cao chạm trời của Trung Hoa gọi là Ngũ Nhạc,
nơi các thần nhân ở, và tiêu biểu cho năm phương. Hành
sơn ở phương Nam, Hoa sơn ở phương Tây, Thái sơn ở
phương Đông, Hằng sơn ở phương Bắc và Trung sơn ở
chính giữa.
Ngoài Ngũ nhạc ra c̣n núi Côn Lôn là kinh đô hạ giới
của Thượng Đế, có các vị tiên ở. Núi được cai quản bởi
một thần nhân mặt người, ḿnh hổ, vuốt hổ, có chín
đuôi. Có loài dê bốn sừng ăn thịt người. Có con quái
vật ḿnh hổ, chín đầu người canh cửa Quang môn phía
Đông. Có những loại chim để Thượng Đế sai phái, và rất
nhiều hoa kỳ cỏ lạ. Một ḍng nước cực loăng, loăng đến
thả một chiếc lông ngỗng lên mà cũng ch́m, chảy quanh
núi ba ṿng để ngăn không cho phàm nhân bén gót tới.
Cũng có sách nói ḍng nước này, nước đỏ như chu sa, ai
uống được sẽ trường sinh bất tử.
Bà Tây Vương Mẫu
Theo sách Sơn Hải Kinh Tây Vương Mẫu h́nh dung rất cổ
quái, mặt người, đuôi báo, răng hổ. Bà ra tai bệnh
dịch hạch hoặc các thiên tai khác. Bà ngụ trong hang
một ngọn núi về phía Bắc ngọn Côn Lôn, ở ngay ranh
giới miền sa mạc mênh mông. Trước mặt bà, thường có ba
con chim xanh để bà sai phái đi kiếm thức ăn.
Về sau này, Tây Vương Mẫu được Nho gia chuyển hóa
thành một nữ thần vừa đẹp vừa có quyền uy, thường hay
thết tiệc chư tiên tại vườn đào của bà ở ngay núi Côn
Lôn.
THUỞ AN BÀI THẾ GIỚI VÀ ĐỜI SỐNG
Sự Tích Bà Nữ Oa
Xưa khi vũ trụ mới bắt đầu khai tịch th́ có hai anh em
bà Nữ Oa ngụ khoảng núi Côn Lôn. Trong thiên hạ chưa
có dân chúng, do đó hai người phải ăn với nhau như vợ
chồng. Họ cũng tự lấy làm xấu hổ về việc đó nên bà Nữ
Oa phải lấy cỏ tết làm cái quạt để che mặt mỗi khi đi
đâu. (Ngày nay c̣n tục cô dâu về nhà chồng thường cũng
cầm quạt che mặt)*
Thấy trong thiên hạ chưa có người, bà Nữ Oa bèn lấy
đất hoàng thổ nặn nên người. Tuy nhiên v́ công việc
làm bộn bề và mệt nhọc lắm, nên không phải người nào
cũng được nặn cẩn thận bằng loại đất vàng, mà rất
nhiều chỉ được nặn vội bằng giây rợ trong đất bùn.
Những kẻ giàu sang, ấy là đă được bà Nữ Oa nặn bằng
đất hoàng thổ; những kẻ nghèo hèn, ấy là những kẻ chỉ
dược nặn sơ sài bằng chất liệu rơm rác**
Trời vào thuở xa xưa đó được chống bằng bốn cột trụ.
Chẳng may những cột trụ đó bị hư hỏng đi, trời xụp
xuống, chín châu bị phân liệt. Dân chúng lâm vào cảnh
trời không che, đất không chở, nơi cao th́ lửa cháy
phừng phừng chẳng ai rập tắt nổi, nơi thấp th́ hồng
thủy lan tràn chẳng ai ngăn cản được. Những loài mănh
thú bắt dân lành ăn thịt, những loài ác điểu dám sà
xuống tha đi những người già lăo và con trẻ yếu đuối.
Bà Nữ Oa bèn đứng ra luyện đá ngũ sắc để vá trời xanh.
Bà chặt chân một loài giải lớn ở biển để chữa bốn trụ
chống trời. Bà lại giết được con rồng đen cực lớn để
cứu châu Kỳ khỏi bị mưa lụt. Khi vá trời xong, bà lấy
tro than ở ḷ luyện đá ngũ sắc mà lấp mạch nước để cứu
dân khỏi nạn nước lụt. V́ thế mà trời xanh được vá
lại, bốn trụ được sửa lại, nước lụt lớn được chặn lại,
an b́nh được châu Kỳ, diệt trừ được các loài ác điểu
trên không, mănh thú dưới đất, giao long dưới nước, và
dân lành lại tiếp tục sống được.
(*) Lư Nhũng, Độc Dị Chí. Theo một bản cổ văn khác,
chồng bà Nữ Oa chính là Phục Hy vậy.
(**) Phong Tục Thông Nghĩa Thiên Thái B́nh Ngự Lăm
(***) Hoài Nam Tử, Thiên Lăm Minh Huấn – Nạn hồng thủy
trong Kinh Thánh gợi ư con người v́ tội lỗi nên bị
Thượng Đế trừng phạt, nhưng nạn nước lớn trong thần
thoại Trung Hoa chỉ là thiên tai từng vùng mà con
người phải ra sức khắc phục.
Truyện Hai Cha Con Oâng Cổn, Oâng Vũ Trị Thuỷ
Thuở đó nước lớn tràn lan, nhiều nơi nước cao tới ba
trăm nhận, và có tới chín cái vực sâu. (Mỗi nhận chừng
sáu thước, bốn tấc, tám phân bây giờ)(1) .
Ông Cổn bèn ăn trộm đất tức hoại của Trời đem trám vào
chỗ mạnh nước tuôn tràn. Đất tức hoại có đặc tính nở
lớn ra đến vô tận, trám vào đâu th́ bịt kín được măi.
Tuy nhiên ông Cổn làm mà không đợi mệnh Trời, nên Trời
mới tức giận sai Chúc Dong giết ông Cổn ở núi Vũ Giao.
Thế là việc trị thuỷ của ông Cổn vẫn chưa thành(2) .
Thi thể ông Cổn quẳng đó ṛng ră ba năm liền mà không
thối rữa. Người ta lấy gươm rạch bụng ông Cổn, th́
thấy con ông là Vũ từ đó chui ra. Lập tức ông Cổn hoá
thành con rùa vàng ba chân, nhảy xuống vực biến mất.
Ông Vũ thụ mệnh của Trời, hoàn tất được việc trị thuỷ,
vạch đất thành sông, phân chia ra làm chín châu. Ông
Vũ dùng đất tức hoại lấp những mạch nước thực sâu. Con
số được ghi rơ là 233.559 mạch nước. Ông Vũ c̣n dùng
đất tức hoại đắp thành những dăy núi chính. Núi cao
không bị ngập nước, sức nặng của núi đầm xuống giúp
cho mặt đất chắc dần. Ông Vũ được con rồng Phi Long
phụ lực, nó dùng đuôi rạch sâu ḷng sông để nước cứ
việc theo đó mà chảy ra biển. Công việc nặng nhọc nhất
phải kể đến việc dẫn nước sông Hoàng Hà ra biển. Thần
Cự Linh đă giúp ông Vũ xẻ núi thành những đường hẻm
xuyên sơn cho nước sông chảy qua mà thẳng đường sớm
tới biển, khỏi quanh co thành muôn ngh́n khúc vô ích.
Tương truyền có lần thần Cự Linh khom người dùng sức,
chân tựa phía bên này, hai tay đẩy mạnh phía bên kia,
trái núi nứt làm đôi thành đuờng thông nước cho ḍng
sông. Cửa Long Môn là một trong những công tŕnh trị
thuỷ của vua Vũ(3) .
Tương truyền suốt thời gian trị thuỷ của ông Cổn, thuở
trước cũng như của ông Vũ về sau, Cộng Công, một hung
thần, luôn luôn t́m cách phá hoại bằng cách làm gió
dâng sóng lớn lên, đẩy nước tràn mạnh đi tới đâu tàn
phá cây cỏ hoa mầu đến đó(4) .
Ông Vũ biết Cộng Công là một quái vật ḿnh rắn có vằn
và có chín đầu, cần phải giết đi th́ cuộc trị thuỷ mới
có cơ thành công. Oâng đă đem hết cả tâm lực, mưu trí
để thực hiện điều đó và khi ông giết được Cộng Công,
máu nó tanh hôi vô cùng, chảy đến đâu đất khô cằn đến
đó, cây cỏ không mọc lên được(5) .
Một truyền thuyết khác về Cộng Công cho rằng v́ Cộng
Công tranh nhau ngôi vua với Chuyên Húc, đôi bên xung
đột nhau làm rung chuyển núi Bất Chu, găy cả cột thiên
trụ, trời nghiêng về phía Tây Bắc, v́ vậy mặt trời,
mặt trăng cùng các tinh tú mới xuất lộ tại những ngôi
vị như chúng ta thấy ngày nay; đất phía Đông Nam không
đầy nên hàng trăm con sông đổ xô về đấy (6) .
Trở lại truyện ông Vũ trị thuỷ, thường biến h́nh thành
con gấu. Oâng giao hẹn vợ là Đồ Sơn Thị (khi đó đương
có mang) rằng chỉ khi nào nghe tiếng trống hăy đem
thức ăn đến cho ông. Hôm đó ông đương biến thành gấu
làm việc hăng, trong khi chay nơi nầy, nhảy nơi nọ,
những tảng đá va vào nhau âm vang như trống. Đồ Sơn
Thị tưởng đó là hiệu lệnh của chồng, bèn mang thức ăn
tới th́ chỉ thấy một con gấu lớn, sợ quá vội bỏ chạy.
Oâng Vũ đuổi theo để phân trần. Đồ Sơn Thị chạy đến
núi Trung sơn hoá thành phiến đá. Hàng ngày, ông Vũ
tới gần phiến đá nói lớn “Nàng hăy trả ta đứa con!”.
Tới một ngày kia, bề mặt hướng về phương Bắc của phiên
đá nứt làm đôi, và Khải, con ông Vũ, được sinh ra.
(1) Hoài Nam Tử, Thiên Địa H́nh Huấn.
(2) Sơn Hải Kinh, Thiên Hải Nội Kinh.
(3) Theo P. Gimal, op. cit., p134.
(4) Hoài Nam Tử, Bản Kinh Huấn
(5) Sơn Hải Kinh, Thiện Đại Hoang Bắc Ninh. Có bản lại
nói là bầy tôi của Cộng Công mới là quáit vật có chín
đầu , ḿnh rắn).
(6) Liệt tử, Thiên Thang Vấn
(7) Hán Thư, Thiên Vũ Đế Bản Kỷy3
CHÚ THÍCH THÊM VỀ CỘNG CÔNG VÀ TỨC HOẠI
Cộng Công: Thiên Ngưu điển kinh Thư ghi Cộng Công là
một chức quan coi việc thuỷ. Trịnh Huyền chú rằng chức
quan nầy vốn là một ḍng họ cha truyền con nối, v́ vậy
mà về sau tên ḍng họ lẫn với quan tước. Đời Nghiêu,
Thuấn bọn Cộn Công phạm nhiều điều hoang dâm, bỏ việc,
kết hợp với Hoan Đâu, Tam Miêu, Cổn thành bốn ḍng
hung ác khiến Thuấn phải xin với vua Nghiêu trừ diệt.
(Như vậy theo kinh Thư của Nho gia, Cộng Công không
c̣n ǵ là thần thoại đầu người ḿnh rắn nữa).
Tức Hoại : Cũng gọi là tức thổ. Sách “Dư Địa Kỷ Thắng”
chép giữa năm Nguyên hoá đời Đường có quan mục ở Kinh
Châu tên là Bùi Vũ đào lên thấy một khối thành bằng bá
bèn cho chuyển đi, th́ năm đó trời mưa rầm rĩ không
dứt, quan mục lại phải cho chôn khối đá đó xuống như
cũ.
Có sách lại viết là tức hoại chôn ở Kinh Châu dưới
cung cũ của vua Vũ xưa, h́nh vuông vắn, không phải là
đất, không phải gỗ, không phải đá, không phải kim
loại, có vân như đường triện. Năm đầu Khang Hy có kẻ
đào lên th́ sấm chớp, mưa gió lớn, phảng phất thấy
h́nh tượng điện đà của vua Vũ.
Sách Sơn Hải Kinh, thiên Hải Nội Kinh ghi là đất huyện
Từ ở Lâm truy đời Hán Nguyên Đế đột nhiên nở dài năm,
sáu dặm, cao hai trượng, ấy là loại tức hoại. Đất nầy
thuộc phía Tây Bắc huyện Tứ, tỉnh An Huy.
Theo sách Liễu Tôn Nguyên đời Đường th́ tại Phong ấp
nước Tầu cũng có loại đất tức hoại Khảo Phủ Chạy Đua
Với Mặt Trời.
Người khổng lồ Khảo Phủ là con của Cộng Công. Một hôm
Khảo Phủ quyết định chạy đua với mặt trời. Khảo Phủ
không những bắt kịp mặt trời mà c̣n chạy nhanh hơn
xuyên sâu vào ḷng mặt trời. V́ ở đấy nóng quá nên khi
trở về, Khảo Phủ khát nước tới mức đă uống hết nước
sông Hà và sông Vị mà vẫn chưa đă. Khảo Phủ bèn chạy
lên phương Bắc dự định uống nốt nước ở đầm Dạ Trạch
nữa, nhưng mới được nửa đường th́ ngă gục xuống chết;
chiếc gậy trúc quăng ra, sau này mọc thành rừng đào
(*)
(*) Sơn Hải Kinh, Thiên Hải Nội Bắc Kinh
Hậu Nghệ Bắn Mặt Trời
Thuở đó ông Nghiêu chưa lên ngôi cửu ngũ, có lần mặt
trời hiện ra mười ngày liền, thiêu rụi cả hoa mầu, cây
cỏ. Các giống mănh thú lớn, các loài rắn rết độc mặc
sức tung hoành ăn thịt và tác hại người dân. Ông
Nghiêu bèn sai Hậu Nghệ giết các loài mănh thú tại
vùng đất Trù hoa, giết loài rắn rết ở vùng Khu thuỷ,
một số khác th́ bị giết trên bờ đầm (hay g̣ ?) Thanh
khâu. Hậu Nghệ lại dương cung bắn mặt trời, giết được
loài chó ngao lớn ở trên đó. Tới hồ Động đ́nh, Hậu
Nghệ giết được loài trăn lớn, c̣n bắt sống được một số
mănh thú ở vùng Tang Lâm. Do đó dân chúng vui mừng và
tôn ông Nghiêu lên làm thiên tử (*)
(*) Hoài Nam Tử, Thiên Bản Kinh Huấn. Lại có huyền
thoại khác nói Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời mang
h́nh quạ lửa đậu ở cây Khổng Tang ngoài biển cả.
Hậu Nghệ và Hằng Nga
(Huyền thoại này măi về sau mới có)
Một lần Hậu Nghệ đi đến núi Côn Lôn, được bà Tây Vương
Mẫu ban cho liều thuốc trường sinh đem về. Hằng Nga
thừa lúc chồng đi săn bắn bèn lấy ra uống trộm. Nàng
đương uống dang dở th́ Hậu Nghệ về. Nàng vội chạy
trốn. V́ uống thuốc tiên nên người nhẹ lâng lâng, bay
được, nhưng uống chưa đủ liều nên nàng chỉ bay tới mặt
trăng th́ ở lại đó. Nghệ rút cung lắp tên bắn lên mặt
trăng, nhưng Hằng Nga được Ngọc Thỏ che chở. Từ đó một
ḿnh Hằng Nga ở trên cung Quản Hàng cùng con thỏ ngọc.
Ít lâu sau Hậu Nghệ cũng lên được thiên đ́nh và làm
quan phụ chính cho thần mặt trời.
Chuyện Chim Tinh Vệ Lắp Biển
Ở núi Phát Cư có giống chim lớn đầu vằn, mỏ trắng,
chân đỏ, gọi là chim Tinh Vệ, tiếng kêu vang lớn.
Tương truyền kiếp trước chim là con gái nhỏ vua Viêm
Đế, tên là Nữ Khuê. Một lần Nữ Khuê dong chơi ở Đông
Hải, không may bị chết đuối. Từ ấy u hồn hoá thành
chim Tinh Vệ, thường tha đá, gỗ ở núi Sơn Tây về mà
lấp biển Đông Hải *
(*) Sơn Hải Kinh, Thiên Bắc Sơn Kinh
SÁCH THAM KHẢO
Sách Pháp.
Granet M. Danses et Légendes de la Chine Ancienne. 2
vol,. Paris : Librairie Félix Alcan, 1926.
Grimal P. Mythologies des Steppes, des Forêts et des
Iles. Paris: Librairie Larousse, 1963.
Mythologie Aisatique Illustrée. Paris : Librairie de
France, 1928.
Sách Hán được dẫn chứng
Hán Thư
Hoài Nam Tử
Liệt Tử
Lư Nhũng Độc Dị Chí
Ngũ Vận Lịch Niên Kư
Phong Tục Thông Nghĩa
Sơn Hải Kinh
Thông Giám Ngoại Kỷ
|