VI.-
TR̉ CHƠI NHI ĐỒNG
- Ư NGHĨA CÁC
TR̉ CHƠI
Tṛ chơi nhi đồng
Việt Nam cũng như
tṛ chơi nhi đồng
của bất cứ nước
nào đều không ít
th́ nhiều vụ vào
những mục đích
giáo dục. Tỉ như:
Tṛ "Rung răng
rung rẻ" giúp các
em nhỏ có những cử
động nhịp nhàng.
Những tṛ chơi
chạy, nhảy, rượt,
đuổi đều có tác
dụng làm cho bắp
thịt các em nẩy nở.
Trong tṛ chơi "Thả
đỉa ba ba", em bị
rượt đuổi phải
luôn luôn làm chủ
được những cử động
của ḿnh, chợt
chạy tả, chợt chạy
hữu... để khỏi bị
bắt.
Tṛ chơi "Rồng rắn"
chẳng hạn, dạy các
em tinh thần liên
đới, bởi các em ở
bên "rắn" phải
luôn luôn liên kết
thành một khối,
đầu chặn thầy
thuốc để đuôi chạy.
Tṛ chơi "Ú t́m"
giáo dục thính
quan, thị quan;
các em vừa lắng
nghe vừa chú mục
nh́n để khám phá
ra nơi có kẻ trốn
nấp.
Phần những câu đố
ở chương VII sau
đây cũng là một
tṛ chơi huấn
luyện trí thông
minh suy đoán.
Tṛ chơi thả diều
(nhiều thứ diều)
vừa giúp tâm trí
thảnh thơi bay
bổng, vừa huấn
luyện óc thẩm mỹ.
Vào dịp trung thu,
các em kết đoàn
lại để rước đèn,
vừa đi vừa hát "hồ
khoan", thực vừa
có tính cách thẩm
mỹ vừa có tính
cách luân lư.
- VÀI CÁCH BẮT
THĂM:
Nếu cần chỉ định
một trong nhiều em
giữ một vai tṛ
ǵ, có cách rút
thăm bằng que. Em
nào rút phải chiếc
que cụt, hoặc
chiếc que gẫy, em
đó phải lănh vai
tṛ.
Nếu tṛ chơi chia
làm hai phe, có
thể bắt thăm nhiệm
vụ chỉ định cho
một trong hai phe
bằng cách "Oẳn,
tù, t́" hay "x́
gà".
"Oẳn, tù, t́" là
phiên âm ba tiếng
Anh: One, Two,
Three (một, hai,
ba). Hai em đứng
đối diện nhau vừa
đu đưa nắm tay vừa
đọc:
Oẳn, tù, t́,
Cái ǵ? Cái
này!
Dứt lời mỗi em
phải quyết định
"xuất tŕnh" h́nh
thù tay của ḿnh
theo một trong ba
kiểu sau đây:
1-. Cả bàn tay x̣e
rộng tượng trưng
tờ giấy.
2.- Chỉ có ngón
tay trỏ và ngón
tay giữa ruỗi ra
tức là cái kéo.
3.- Cả bàn tay nắm
lại h́nh quả đấm
là cái búa (với
các em nhi đồng
Nhật-bản th́ là
ḥn đá).
Tờ giấy thắng búa
v́ bọc được búa,
nhưng lại thua kéo
v́ kéo cắt được
giấy. Búa tuy thua
giấy nhưng lại
thắng kéo, v́
chính với búa, thợ
rèn đă rèn đập ra
kéo.
"x́ Gà": Hai em
cũng đứng đối diện
và sau khi đă cùng
phát âm tiếng "x́"
giữa hai hàm răng
th́ cùng giơ một
trong bốn ngón tay
sau đây lên ngang
mắt.
- Ngón cái: vua
bắt kẻ trộm.
- Ngón trỏ: kẻ
trộm bắt gà.
- Ngón giữa: gà mổ
mối.
- Ngón đeo nhẫn:
mối đục chân vua.
Sau đây là một số
tṛ chơi phổ thông
của các trẻ em
Việt, đặc biệt là
ở vùng quê.
CHƠI DIỀU:
Tṛ chơi này không
riêng cho trẻ em
mà cho cả người
lớn nữa. Có điều
người lớn th́ chơi
những diều cỡ bự
mang sáo chiêng,
sáo đẩu. Có diều
lớn tới ba thước
chiều ngang, một
thước chiều rộng
mang một bộ ba cái
sáo. Sáo lớn kêu
âm u gọi là sáo
chiêng (phải chăng
v́ kêu âm u như
tiếng chiêng); sáo
cỡ trung gọi là
sáo đẩu. Ngày hội
có những cuộc thi
diều cho người
lớn, giải thưởng
thật hậu, chẳng
thế mà ca dao ta
đă có câu:
Cầm dây cho
chắc,
Lúc lắc cho đều.
Để bố đâm diều,
Kiếm gạo con ăn.
Các em nhỏ th́
chơi diều sáo loại
nhỏ, hoặc loại
diều vằng. Đồng
bào miền Hưng Yên
(Bắc Việt) gọi
vằng là cái mạng
v́ vằng làm bằng
màng giang chuốt
thật mỏng; lúc
diều lên gặp gió,
màng giang của
vằng rung lên kêu
"vè vè" rất vui
tai.
Các em nhỏ có thể
chơi loại diều
nhẹ. Người khéo
tay có thể làm
được nhiều thứ
diều: diều con
cốc, diều con quạ,
diều con cá, diều
con bướm, diều con
rết, diều chữ
thập, diều cánh
phản, diều mặt
giăng...
THẢ MỒI ĐỚP
BÓNG:
Sau khi đă rút
thăm để xem ai
phải làm tṛ "thả
mồi đớp bóng", các
em khác thả lên
mặt ao chiếc bong
bóng lợn đầu có
buộc một sợi dây
dài chừng năm mươi
phân. Trong khi em
nọ vừa bơi vừa hụp
cố há miệng đớp
lấy sợi dây th́
các em xung quanh
đua nhau khuấy vỗ
cho mặt nước nổi
sóng chao chát.
Nếu em kia đớp
được sợi dây th́
em ở gần nhất lúc
đó phải thay thế;
nếu qua một thời
gian ước định mà
không được th́
phải phạt "trồng
cây chuối", nghĩa
là em phải hụp đầu
xuống nước, hai
chân ruỗi thẳng
chổng ngược lên
mặt nước. Suốt
thời gian đó các
em khác hát lớn
bài sau đây:
Thả mồi đớp
bóng,
Cho chóng mà lên.
Nếu không th́
giồng cây chuối,
Cho chúng ta xem.
CHỒNG ĐỐNG
CHỒNG ĐE:
Các em ngồi hay
đứng thành ṿng
tṛn xếp nắm tay
lần lượt theo
chiều cao. Một em
đứng riêng ra, vừa
lần lượt chỉ từng
nắm tay vừa hát:
Chồng đống
chồng đe,
Con chim le lưỡi.
Nó chỉ thằng nào,
Nó chỉ thằng này!
Chữ "này" sau cùng
rơi vào nắm tay em
nào, em đó lập tức
vùng đuổi, các em
khác cũng lập tức
vùng chạy tỏa ra
bốn phía. Em nào
chạy không kịp bị
bắt th́ phải vào
thay thế.
HỒ KHOAN
Vào dịp Tết trung
thu, các em trong
làng, xóm tụ tập
nhau để rước đèn.
Em trưởng đoàn vừa
điều khiển cuộc
rước đèn theo các
đường trong làng
trong xóm, vừa
điều khiển nhịp
hát hồ khoan, nội
dung câu hát
thường có tính
cách luân lư, đại
để như sau:
Bắt cái, bắt
cái này, hồ khoan!
Ai ơi chớ vội cười
nhau,
Cây nào mà chẳng
có sâu chạm cành,
Hồ khoan!
Bắt cái, bắt cái
này, hồ khoan!
Làm người mà chẳng
biết suy.
Đến khi nghĩ lại
c̣n ǵ là thân,
Hồ khoan!
RUNG RĂNG RUNG
RẺ
Rung răng rung
rẻ,
Dắt trẻ đi chơi.
Đến cửa nhà trời,
Lạy cậu lạy mợ,
Cho cháu về quê,
Cho dê đi học,
Cho cóc ở nhà,
Cho gà bới bếp!
X́ xà x́ xụp
Ngồi thụp xuống
đây.
Chú thích:
Tṛ chơi này của
các em nhỏ tuổi
(cỡ mẫu giáo). Các
em chỉ việc giắt
tay nhau vừa đi
vừa hát. Khi hát
xong câu cuối cùng
th́ cùng ngồi thụp
xuống, rồi lại
đứng lên rung răng
hát lại. Một thứ
thể thao nhẹ cho
các em.
NU NA NU NỐNG(I)
Nu na nu nống,
Cái Cống nằm
trong.
Cái Ong nằm ngoài,
Củ khoai chấm mật.
Phật ngồi phật
khóc,
Con cóc nhảy ra.
Con gà ú ụ,
Nhà mụ thổi xôi.
Nhà tôi nấu chè,
Tè he chân rụt.
Chú thích:
Đây cũng là tṛ
chơi đặc biệt của
các em c̣n nhỏ.
Ba, bốn em cùng
nhau hội lại ruỗi
thẳng cả hai chân
ra. Một em vừa hát
vừa tuần tự lấy
tay đếm từng chân
một. Tiếng "rụt"
dứt bài rơi vào
chân nào, chân đó
phải rụt lại.
NU NA NU NỐNG(II)
Nu na nu nống,
Thằng cộng, các
cạc.
Chân vàng, chân
bạc,
Đá xỉa, đá xoi.
Đá đầu con voi,
Đá lên, đá xuống.
Đá ruộng bồ câu,
Đá râu ông già.
Đá ra đường cái,
Gặp gái đi đường.
Có phường trống
quân,
Có chân th́ rụt.
Chú thích:
Cũng có nơi có bài
"nu na nu nống"
khác như sau:
Nu na nu nống,
Cái cống càng
cạng.
Đá rạng đôi bên,
Đá lên đá xuống.
Đá ruộng bồ câu,
Đá đầu con voi.
Đá xoi đá xỉa,
Đá nửa cành xung.
Đá ung trứng gà,
Đá ra đường cái.
Gặp gái giữa
đường,
Gặp phường trống
quân.
Có chân th́ rụt.
X̀A CÁ MÈ
X́a cá mè,
Đè cá chép.
Chân nào đẹp,
Đi rao men.
Chân nào đen,
Ở nhà làm gà làm
chó.
Chú thích:
Tṛ chơi này đặc
biệt thường thấy ở
vùng Bắc Ninh.
Tiếng "đẹp" rơi
vào chân em nào,
em đó sẽ đứng lên
đi và rao "Ai mua
men ra mua!" Tiếng
"gà" (có khi là
mèo), tiếng "chó"
rơi vào chân em
nào em đó sẽ vừa
đi kiểu bốn chân
vừa bắt chước
tiếng gà, tiếng
mèo hoặc tiếng chó
sủa "gấu gâu".
THẢ ĐỈA BA BA
Thả đỉa ba ba,
Chớ bắt đàn bà.
Phải tội đàn ông,
Cơm trắng như
bông.
Gạo tiền như nước,
Đổ mắm đổ muối.
Đổ chốt hạt tiêu,
Đổ niêu cứt gà.
Đổ phải nhà nào,
Nhà nấy phải chịu.
Trong tṛ chơi này
bốn năm em đứng
tụm lại giữa sân
rộng, một em vừa
hát vừa lấy tay vỗ
lên đầu từng người
theo thứ tự ṿng
tṛn. Dứt bài, chữ
"chịu" rơi phải
đầu em nào, em đó
phải ở lại dưới
sân làm đỉa, làm
ba ba hay làm nam
nam. Theo tín
ngưỡng người Việt
ở vùng quê, hễ
chuôm ao nào có
người chết đuối
th́ linh hồn người
đó biến thành con
nam nam (nói theo
miền Nam là con ma
gia), luôn luôn
ŕnh cơ hội rủi
người khác chết
đuối. Có vậy linh
hồn kẻ chết đuối
mới được thay thế
mà tái sinh.
Trong khi một em
phải ở lại dưới
sân làm đỉa (hay
ba ba, hay nam
nam) th́ các em
khác lên hết trên
bờ hè hoặc bờ cao
quanh sân để rồi
sẽ chạy từ bờ bên
này qua bờ bên
kia. Em ở "dưới
ao" cố săn đuổi,
túm áo bắt được em
nào, em đó phải
thay thế. Tṛ chơi
này thường là của
các em trai và đặc
biệt phải chơi vào
những đêm trăng
tháng 8.
Các em ở vùng Bắc
Ninh có bài hát
tương tự để thay
thế sau đây:
Thả đỉa ba ba,
Chớ bắt đàn bà.
Phải tội đàn ông,
Cơm trắng như
bông.
Gạo tiền như nước,
Gánh ba gánh nước.
Đưa cậu ra đồng,
Đánh ba tiếng
cồng.
Cậu ơi là cậu...
CHI CHI CHÀNH
CHÀNH
Chi chi chành
chành,
Cái đanh thổi lửa.
Con ngựa chết
trương,
Ba vương ngũ đế.
Chấp chế đi t́m,
Hù tiu, bắt... ập!
Chú thích:
Một em x̣e bàn tay
trái rồi cùng ba
bốn em khác cùng
đặt ngón tay trỏ
vào giữa ḷng bàn
tay. Em hát bài
trên, đến câu cuối
cùng cố ư kéo dài
giọng ở chữ "bắt"
để rồi bất th́nh
ĺnh nắm tay lại
cùng với chữ "ập".
Em nào rút chậm bị
giữ ngón tay trỏ,
em đó phải ở lại,
tự bịt mắt để các
em khác đi trốn.
Em nào bị t́m thấy
đầu tiên sẽ phải
thay thế./P>
Cũng trong tập
IIEH 1943
(Institut
Indochinois pour
l’E’tude de
l’Homme. Tome VI,
p.170), nhà học
giả Nguyễn Văn Tố
có sưu tầm được
một bản văn khác
về bài "Chi chi
chành chành" với
lời giải thích là
ư nghĩa toàn bài
đó ám chỉ chuyện
vua Hàm Nghi đi
trốn và bị bắt như
sau:
CHI CHI CHÀNH
CHÀNH
Chu chi rành
rành!
Cái đanh thổi lửa,
Con ngựa đứt
cương,
Ba vương lập đế,
Chấp chế thượng
hạ,
Ba chạ đi t́m,
Ú tim, ù ập!
Chú thích:
Chu: ṿng tṛn;
chí: đạt tới. Cả
câu có ư nói chúng
ta đứng thành ṿng
tṛn đầy, chúng ta
hiểu điều đó lắm.
Câu thứ hai ư muốn
báo trước những
biến cố đau thương
sắp tới.
Ba vương nói ở câu
bốn là ba vua kế
tiếp nhau lên
ngôi: Dục Đức,
Hiệp Ḥa và Kiến
Phúc.
Chạ chính nghĩa là
xóm, một phần của
làng (ca dao VN:
"làng trên chạ
dưới thiếu ǵ giai
to"). Nhưng ba chạ
ám chỉ ba làng
Thanh Lạng, Thanh
Cốc và Tha Mặc đi
t́m vua. Ba làng
này đă được kể tới
trong bài “
Poursuites
dirigées contre le
roi Ham Nghi” của
R.P.A Delvaux đăng
trong Bulletin des
Amis du Vieux Hue,
1941, tr. 303.
Câu cuối: vua Hàm
Nghi bị bắt, ngày
2-11-1888.
Ông Nguyễn Văn Tố
giải thích thêm là
vua Hàm Nghi khởi
sự đi trốn vào
tháng bảy năm
1884, bị bắt vào
ngày 2-11-1888 và
bài đồng dao được
ghi lại theo lời
một người dân vùng
Sơn Tây, đă được
đăng tải lần đầu
tiên trên tờ "La
Patrie Annamite"
ngày 15-6-1935.
Cũng trong tập
IIEH 1943, bài
"Note à propos
d’une chanson
enfantine
Annamite" trang
207-212, một học
giả khác, ông
Nguyễn Văn Huyên,
thuật lại một cách
giải thích khác mà
ông được nghe từ
thuở thiếu thời.
Theo ông, th́ đây
là một bài sấm
tiên tri về tương
lai nước Nam nhà
sau khi nhà Lê đổ:
- Chi chi chành
chành: từ cành lớn
sinh ra những
ngành nhỏ (gợi ư
niệm những biến
động theo luật
nhân quả)
- Cái đanh thổi
lửa: Ám chỉ que
diêm quẹt lửa hay
đúng hơn cái kim
hỏa của súng tượng
trưng cho sức mạnh
Tây phương mà tới
hồi cuối thế kỷ
XVIII đó người Nam
ta mới được biết.
- Con ngựa chết
trương: Ám chỉ vua
Lê Hiển Tông chết
vào ngày Mậu Ngọ
(ngày 17), tháng
7, năm Bính Ngọ
(1786), sau 47 năm
cực nhọc với ngôi
trời. Nhà vua chết
vào đúng lúc kinh
đô Thăng Long bị
quân Tây Sơn chiếm
giữ.
- Ba vương ngụ đế:
Ba miền đă có
người xưng vương,
Nguyễn Huệ (Quang
Trung), miền Bắc,
Nguyễn Nhạc (Thái
Đức) miền Trung,
Nguyễn Ánh (tương
lai sẽ là vua Gia
Long) miền Nam.
- Cấp kế thượng
hải: Viện binh từ
biển tới. Ám chỉ
việc Hoàng tử Cảnh
theo ông Bá Đa Lộc
sang Pháp cầu viện
năm 1789.
- Ú tim Ù ập: Mọi
người đều như chơi
"ú t́m" từ đấy.
Nào là việc cấm
giảng đạo, giết
giáo sĩ của những
triều đại kế vị
Gia Long đă vô
t́nh làm cho người
Pháp phản ứng lại.
Sự phản ứng đó
không ngờ đă khiến
người Pháp chiếm
được nước Nam rồi
cả bán đảo Đông
Dương. Rơ thật
chẳng khác ǵ hai
bên chơi tṛ ú
t́m, mọi kết quả
đều đến bất ngờ
ngoài mọi mưu toan
của đôi bên.