|   | 
        TUYỂN TẬP VĂN CHƯƠNG NHI ĐỒNG 
      - 3A 
      
      
        
          
          
            
              
              
                
                  
                  
                    
                      
                        
                      QUYỂN BA    
                       
                        
                       THẦN THOẠI 
                       DOĂN QUỐC SỸ 
                       Sưu tập 
                        
                         
                       
                      
                       
                      TỔNG 
                      LUẬN VỀ THẦN THOẠI 
                       
                      NGUỒN 
                      GỐC THẦN THOẠI 
                       
                      Con người sở dĩ không ngừng mở rộng chân trời tri thức 
                      chính là v́ đă biết luôn luôn nh́n vạn vật quanh ḿnh bằng 
                      con mắt mở lớn ngạc nhiên, tra hỏi. Thần thoại là h́nh 
                      thức văn nghệ sớm nhất của ấu thời nhân loại, thời mà óc 
                      tưởng tượng bắt đầu bị kích thích, trí suy tưởng bắt đầu 
                      nẩy nở, t́nh cảm bắt đầu phát triển. Vào thời này, con 
                      người thấy ḿnh sống ngợp giữa những huyền bí của vũ trụ: 
                      cái ǵ làm các v́ tinh tú vận chuyển trên trời, cái ǵ làm 
                      bốn mùa đổi thay cùng với mưa nắng, gió băo, sấm sét ? … 
                      Và con người bập bẹ giải thích, tin tưởng vạn vật đều có 
                      linh hồn. Dĩ chí những dụng cụ do chính họ tạo tác cũng có 
                      linh hồn và đời sống riêng tư (tỉ như con chó đá chôn ở 
                      trước cửa). Thật là thú vị khi chúng ta thấy rằng sau khi 
                      sáng tạo ra các vị thần đầy đủ cả về h́nh thức lẫn quyền 
                      uy rồi con người sinh ḷng sùng bái những linh phẩm do 
                      chính ḿnh tạo tác đó, uỷ cho nào những nhiệm vụ khuyến 
                      thiện trừng gian an bài xă hội … Tóm lại thần linh mang 
                      h́nh ảnh của con người, phản ảnh nếp sống cùng nguyện vọng 
                      của con người. 
                       
                      SỰ TIẾN TRIỂN CỦA THẦN THOẠI – PHÂN BIỆT THẦN THOẠI VỚI 
                      TRUYỀN THUYẾT * 
                       
                      Thần thoại không chỉ ngừng lại ở chỗ cắt nghĩa vũ trụ muôn 
                      vật, cắt nghĩa nguồn gốc của giống ṇi ḿnh, mà vào giai 
                      đoạn chót của sự tiến triển c̣n là cách thức nhân hoá các 
                      vị thần và thần hoá các vị anh hùng dũng sĩ trong lịch sử. 
                       
                      Chỉ riêng ở Hy Lạp, thần thoại tách rời với lịch sử thành 
                      hai ḍng riêng biệt, c̣n hầu hết thần thoại của các dân 
                      tộc trên thế giới đều pha lẫn với lịch sử buổi đầu. Tuy 
                      nhiên căn cứ vào bản chất, chúng ta vẫn có thể phân biệt 
                      được đâu là thần thoại, đâu là truyền thuyết. Thần thoại 
                      là một h́nh thức của truyền thuyết, song những nhân vật 
                      đều là thần và thời gian trong câu truyện hoàn toàn do 
                      tưởng tượng mà ra, c̣n truyền thuyết kể những sự việc cùng 
                      nhân vật có dính líu tới lịch sử tục truyền. Truyền thuyết 
                      có khi là thần thoại được sửa lại thành phần lịch sử hoang 
                      đường để phân biệt với phần lịch sử thật sự.  
                       
                      (*) 
                      Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư I, Thần Thoại, 
                      Quốc Hoa, Saigon 1959, chương “Nguồn Gốc”. 
                       
                      SỰ 
                      GIAO LƯU CỦA THẦN THOẠI GIỮA CÁC NƯỚC* 
                       
                      Thần thoại cũng như cổ tích của các dân tộc chịu ảnh hưởng 
                      lẫn nhau. Khi gặp gỡ nhau tại các ngă như vậy, chủ đề thần 
                      thoại vẫn y nguyên, song t́nh tiết có thể thêm bớt cho 
                      thích hợp với những quan niệm, những cảm nghĩ mộc mạc cá 
                      biệt của mỗi dân tộc, thích hợp với triết lư đặc thù của 
                      mỗi dân tộc do hoàn cảnh địa lư, lịch sử tiến triển trong 
                      thời gian, không gian tạo thành. 
                       
                      Người ta nhận thấy nạn Hồng Thuỷ kể trong Kinh Thánh Hy Bá 
                      Lai cũng có ở trong thần thoại của các sắc dân trên dăy 
                      Trường Sơn và thượng du Bắc Việt. Nhiều khi hai dân tộc ở 
                      xa nhau hẳn mà trong thần thoại lại có nhiều truyện giống 
                      nhau. Các nhà tôn giáo căn cứ vào đó để đưa ra thuyết nói 
                      rằng nhân loại vốn cùng một gốc do Thượng Đế sinh ra, các 
                      nhà nghiên cứu khoa học thần thoại th́ nói rằng đó là do 
                      ảnh hưởng giao lưu văn hoá giữa các dân tộc. 
                       
                      Ấn Độ là xứ ghi dấu vết đầu tiên về thần thoại chữ viết 
                      trên thế giới. Những thần thoại được chép trong kinh Phệ 
                      Đà của Ấn Độ có từ khoảng 4.500 năm trước công nguyên. V́ 
                      vậy thần thoại Ấn Độ thường được coi là nguồn gốc chung 
                      của thần thoại các dân tộc trên thế giới.  
                       
                      TÁC 
                      DỤNG CỦA THẦN THOẠI 
                       
                      - Ư nghĩa khoa học, tôn giáo, đạo đức :  
                      Mặc dầu thần thoại nhuộm tính chất hoang đường song không 
                      bao giờ là không bắt nguồn tự những khát vọng, tự những 
                      t́nh cảm có thực. Bởi vậy, như trên đă nói, nếu đem đối 
                      chiếu với những sự kiện lịch sử, địa lư, nhân chủng, ngôn 
                      ngữ, chúng ta có thể thấy những h́nh thái tượng trưng của 
                      thần thoại nói trên phần nào tài liệu về nguồn gốc, tín 
                      ngưỡng, triết lư của mỗi dân tộc. 
                      - Thần thoại với thi ca, nghệ thuật  
                      “Những h́nh ảnh đầu tiên trong hang đá của tổ tiên loài 
                      người là những phát hoạ các thần tượng bắt đầu tạo thành 
                      trong ư thức con người. Rồi về sau, người ta mới biểu hiện 
                      hoàn mỹ hơn thành những h́nh ảnh thần thánh của các dân 
                      tộc. Thần thoại Hy Lạp đă phát sinh ra nghệ thuật Hy Lạp. 
                      Nghệ thuật điêu khắc Chiêm Thành, Khmer, cũng bắt nguồn từ 
                      thần thoại của họ. Nền văn nghệ Phục Hưng của Tây Phương 
                      được rực rỡ là nhờ ở hai nguồn thần thoại Hy Bá Lai và 
                      thần thoại Hy Lạp. Những chạm trổ Việt Nam cũng do ảnh 
                      hưởng xâu xa trong thần thoại dân tộc. 
                       
                      Thần thoại là nguồn gốc tươi thắm của nền nhân bản thực 
                      sự. Thần thoại là sử thi, tiểu thuyết lịch sử, ngụ ngôn 
                      của mỗi dân tộc” ** 
                       
                      - Thần thoại với các em thiếu nhi: 
                      Như chúng ta đă biết, thần thoại là cái nh́n của con người 
                      cổ sơ thần hoá một cách chất phác hiện tượng thiên nhiên. 
                      Có thể nói các em thảnh thơi đi vào thế giới thần thoại 
                      thật đắc ư như cá gặp nước, như mây gặp rồng. Các em vốn 
                      đương ở tuổi trí tưởng tượng nở rộng như mây gió, nh́n vào 
                      cái ǵ cũng thấy sống động. Thế giới đồ chơi của các em 
                      (búp bê, bàn, ghế, giường, tủ …) có cả một đời sống riêng 
                      tư mà các em hàng ngày tham dự. Như vậy hỏi làm chi mà các 
                      em chẳng dễ dàng thích ứng với thế giới thần linh của buổi 
                      ban đầu nhân loại? 
                       
                      (*) Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư I, Thần 
                      Thoại, Quốc Hoa, Saigon 1959, chương “Nguồn Gốc”. 
                      (**)Hoàng Trọng Miên, sđd tr. 45 
                       
                       
                      LỜI 
                      CẢM TẠ 
                      Khởi 
                      đầu là thần thoại Ấn Độ, thần thoại lâu đời nhất của nhân 
                      loại. Chúng tôi chân thành cảm tạ giáo sư Lê Xuân Khoa đă 
                      cho phép chúng tôi tham khảo, và đúc kết những điều giáo 
                      sư viết về lịch sử, tôn giáo, thần thoại, triết học Ấn Độ 
                      trong tác phẩm Nhập Môn Triết Học Ấn Độ của giáo sư (Bộ 
                      Quốc Gia Giáo Dục xuất bản, 1965). V́ đây là một “Tuyển 
                      tập Văn Chương Nhi Đồng” nên phần kể chuyện ở trên, chúng 
                      tôi cố gắng giữ cho đơn giản, nhưng phần chú thích, phần 
                      bổ túc để người lớn đọc, chúng tôi cố gắng ghi chú cho đầy 
                      đủ nhiều chừng nào hay chừng ấy.  
                       
                       
                      THẦN 
                      THOẠI ẤN ĐỘ 
                       
                      V́ thần thoại Ấn Độ liên lạc mật thiết tới lịch sử Ấn, 
                      thánh kinh Vê Đa cùng nền triết lư ẩn ngụ trong đó, nên 
                      hăy xin tuần tự giới thiệu ngắn gọn những vấn đề trên 
                      trước khi đi vào thần thoại Ấn Độ thật sự. 
                       
                      LỊCH SỬ ẤN ĐỘ 
                       
                      Những niên đại đáng ghi:  
                       
                      Thời Tiền Sử (cũng có thể gọi là tiền Vê Đa) 
                      2700-1700 : Văn minh lưu vực sông Indus. 
                      1500-1200 : Dân Aryan xâm nhập Ấn Độ. 
                       
                      Thời Vê Đa 
                      1200-900 : Kinh Rig-Veda 
                      900 - : Trận chiến tranh mô tả trong Mahâbhârata. 
                      900-500 : Các Kinh Vê Đa khác, Brâhmana và khởi đầu 
                      Upanishad. 
                       
                      Nhờ công cuộc khai quật của các nhà khảo cổ trong khoảng 
                      nửa thế kỷ nay ở hai miền Mohenjodaro và Harappa (Tây Bắc 
                      Ấn Độ), người ta đă khám phá ra những di tích của một nền 
                      văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ, mệnh danh là văn minh lưu 
                      vực sông Indus, phỏng định khoảng 2700-1700, tức là trước 
                      thời kỳ dân Aryan xâm nhập Ấn Độ và tạo lập nền văn hoá Vê 
                      Đa. Người ta tin chắc rằng trước khi dân Aryan du nhập đất 
                      Ấn, người Dravidien đă cư ngụ ở khắp miền Tây Bắc Ấn Độ. 
                      Do đó, những đặc tính văn minh Dravidien với nền văn minh 
                      ở lưu vực sông Indus có thể chỉ là một. Người ta nhận thấy 
                      trong các kinh Rig Veda và Atharva Veda, ư thức tôn giáo 
                      của dân Aryan đến chiếm đóng đă được hoà hợp cùng với quan 
                      niệm tín ngưỡng của người bản xứ, các vị thần linh của 
                      người bản xứ đă được bổ túc bằng những vị Thần Mặt Trời, 
                      Thần Lửa, Thần Gió do người Aryan thờ phụng. Những yếu tố 
                      tiền Veda (pre-Vedic) có thể gọi chung là những yếu tố văn 
                      hoá phi Veda (non-Vedic). 
                       
                      THÁNH 
                      KINH VEDA 
                       
                      Veda (do tự căn Vid) có nghĩa là Biết, cái Biết tuyệt đối 
                      và toàn diện. Veda có lẽ cùng một ngữ nguyên với những 
                      tiếng Video (Latin), Weise (Đức) và Wit hay Wisdom (Anh). 
                      Dù nặng về tôn giáo và nhẹ về triết lư, Veda vẫn phải được 
                      coi là khởi nguyên của tất cả mọi hệ thống tư tưởng và 
                      h́nh thức tôn giáo chính thống của Ấn Độ. 
                       
                      Về phương tiện thiêng liêng hay thần học, Veda được người 
                      Ấn Độ tin tưởng là những chân lư do Thượng đế mặc khải cho 
                      loài người. Những chân lư ấy tự nó vẫn tồn tại như những 
                      định luật, trước tất cả mọi vật, trước mọi sự hiểu biết. 
                      Sau mỗi lần vũ trụ bị hủy diệt toàn diện chỉ có Thượng Đế 
                      là tồn tại. Khi Ngài muốn cấu tạo vũ trụ mới, Ngài tạo ra 
                      Brahmâ (Phạm Thiên, đấng sáng tạo ra vũ trụ), rồi Ngài 
                      thông tri cho Brahmâ những chân lư Veda. Bấy giờ Brahmâ 
                      mới bắt đầu thực hiện công cuộc sáng tạo theo đúng với 
                      chân lư Veda. Lâu lâu, Brahmâ lại tạo ra những bậc đạo sĩ 
                      thấu thị (drishtâra hay rishi) có khả năng tiếp thụ những 
                      lời mật chú (mantra). Đó là công việc mặc khải chân lư 
                      Veda. Các học giả đă đưa ra nhiều giả thuyết rất khác nhau 
                      về thời gian san định kinh Veda. Khuynh hướng chung ngày 
                      nay có vẻ ấn định thời gian san định đó vào khoảng 1500- 
                      1000 trước T.C. 
                       
                      Có tất cả bốn bộ Veda: Rig Veda (Độc tụng Phệ Đà), Sama 
                      Veda (Ca vịnh Phệ đà), Yajur Veda (Tế tự Phệ đà) và 
                      Atharva Veda (Nhương tai Phệ đà; Nhương tai có nghĩa là 
                      cầu đảo cho khỏi tai hoạ). Trong tứ Veda, riêng bộ Rig 
                      Veda là lâu đời nhất và quan trọng nhất. 
                       
                      Mỗi bộ Veda thường được chia làm ba phần : Matras gồm 
                      những bản thánh ca và thần chú. Brahmanâ viết bằng văn 
                      xuôi, nói về những nghi thức tế tự, và Upanishad tức là 
                      phần triết lư giải thích ư nghĩa bí hiểm và sâu sắc của 
                      Veda, thường được dịch là Áo Nghĩa Thư. 
                       
                      TÔN GIÁO ẤN ĐỘ QUA THÁNH KINH VEDA 
                       
                      Về h́nh thức, tôn giáo Veda là một đa thần giáo, nhưng về 
                      bản chất tôn giáo Veda là một nhất thần giáo. Theo tôn 
                      giáo Veda, tất cả các thần linh chỉ là những biểu hiện 
                      khác nhau của cùng một thực tại, tức là Brahman hay 
                      Ishvara (Thượng Đế). Người ta có thể nhận biết Ngài qua ba 
                      ngôi chủ động : đấng Sáng Tạo (Brahmâ), đấng Bảo Hộ 
                      (Vishnu), và đấng Huỷ Diệt (Shiva). Tuy ba mà vẫn quy về 
                      một mối, chẳng phải chỉ đồng nhất trong bản thể và nguồn 
                      gốc mà c̣n trong cả hành động nữa. V́ thế mà trong nhiều 
                      ngôi đền Ấn độ giáo, người ta thấy h́nh ảnh Tam linh vị đă 
                      được thể hiện bằng một cái đầu có ba bộ mặt.  
                       
                      Một thi sĩ xưa đă diễn tả vai tṛ hợp nhất của Ba Ngôi 
                      trong mấy vần thơ sau: 
                       
                      Thượng Đế duy nhất biểu hiện trong cả ba ngôi 
                      Đấng nào cũng đứng đầu, Đấng nào cũng đứng chót. 
                      Không một đấng nào tách ra riêng biệt 
                      Brahmâ, Vishnu, Shiva; mỗi Đấng đều có thể là :  
                      Thứ nhất, thứ nh́, thứ ba trong ngôi chí thánh. 
                       
                      TRIẾT 
                      HỌC ẤN ĐỘ 
                       
                      Triết học Ấn Độ, vốn liên hệ chặt chẽ với tôn giáo, nên 
                      chân lư Ấn Độ cũng có tính cách đa diện, đa phương đưa đến 
                      thái độ sử thế tiếp vật hoà nhi bất đồng. Các hệ thống 
                      triết học chỉ là những lối nh́n khác nhau, những cách mô 
                      tả các khía cạnh khác nhau của cùng một chân lư. Thêm một 
                      điều cần nhớ là triết học Ấn Độ kể từ khởi thuỷ tới nay 
                      luôn luôn nhằm mục đích thực nghiệm tâm linh, tức là thực 
                      hiện ở ngay tại nội tâm cái bản tính đại đồng hợp nhất cá 
                      nhân với vũ trụ, Tiểu ngă (Âtman) với Đại ngă (Brahman). 
                       
                      Đi vào nhân sinh quan, triết học Ấn Độ cũng đề cập đến một 
                      kế hoạch sống có tính cách toàn diện gồm bốn mục đích của 
                      đời sống: Dharma (đạo đức), Artha (tài sản), Kâma (lạc 
                      thú) và Moksha (giải thoát). Bốn mục đích nầy phải được 
                      tuần tự thực hiện theo bốn giai đoạn cần thiết cho đời 
                      sống. Chương tŕnh giáo dục thiếu niên trong giai đoạn đầu 
                      dựa trên một nền tảng chung là thánh kinh Veda. Sang giai 
                      đoạn thứ nh́, kẻ trưởng thành bắt đầu xây dựng cuộc đời 
                      của ḿnh bằng việc thành lập gia đ́nh, sử dụng tài năng và 
                      nghề nghiệp của ḿnh để tạo lập giàu sang, hưởng thụ mọi 
                      thú vui trần thế. Trong thời kỳ này, con người sống cuộc 
                      đời trần thế toàn diện, thực hiện ba mục đích đầu tiên là 
                      tài sản, lạc thú và đạo đức, gọi chung là Tam Hiệp 
                      (Trivarga). 
                       
                      Khi nhận thấy ḿnh da đă nhăn, đầu điểm bạc, và khi đă 
                      thấy đứa cháu nội ra đời, đó là bắt đầu giai đoạn thứ ba 
                      rút vào rừng, rũ bỏ hết mọi ràng buộc đối với đời sống 
                      trần gian để trở về đời sống nội tâm, t́m ṭi thực hiện 
                      cái bản ngă chân thực và vĩnh cửu, dọn ḿnh cho cuộc đời 
                      giải thoát ở giai đoạn cuối cùng. 
                       
                      Có sống cuộc đời nhập thế mới có đủ lư do để khao khát 
                      cuộc đời xuất thế. Phải thực nghiệm đời sống trần tục mới 
                      hiểu thấu được thế nào là đau khổ, là vô thường, ngay cả 
                      đối với những cái gọi là lạc thú trên đời. Vả lại, nhập 
                      thế không phải chỉ có nghĩa là hưởng thụ, con người c̣n 
                      phải thi hành bổn phận đối với gia đ́nh và xă hội. Kế 
                      hoạch sống toàn diện theo quan niệm truyền thống Ấn Độ là 
                      như thế. 
                       
                      Quan niệm về luân hồi của người Ấn Độ do hoàn cảnh địa lư 
                      đặc biệt gây ra. Thời tiết luân chuyển: mùa xuân gây mầm 
                      sống, mùa hè nung nấu, thu chuyển sang đông gió lạnh thấu 
                      xương, các mùa vận hành theo một chu kỳ bất tận vô thuỷ vô 
                      chung giữa sáng tạo và huỷ diệt. Ư niệm luân hồi phối hợp 
                      với thuyết nghiệp báo để chứng tỏ quá tŕnh vận hành có 
                      trật tự của linh hồn. Nhân nào quả ấy, thiện báo thiện, ác 
                      báo ác. Thuyết này dạy ta phải can đảm chịu đựng tất cả 
                      mọi điều ǵ sẩy đến cho ta ở cuộc sống hiện tại v́ chúng 
                      chỉ là kết quả của những việc ta làm tự kiếp trước. Tuy 
                      nhiên, tương lai là tuỳ thuộc nơi ta. Người ta là một sản 
                      phẩm của ư chí, cái vô hạn ở con người giúp hắn vượt lên 
                      trên những ràng buộc của hữu hạn, đạt được tự do tối cao, 
                      “hợp nhất với Thượng đế”, thoát ra khỏi ṿng nghiệp chướng 
                      của thế giới giác quan và dục vọng. Đó là thực hiện được 
                      sự hợp nhất tâm linh đại đồng vũ trụ, cứu cánh của đời 
                      người.  
                       
                      BẢNG 
                      GHI CHÚ VỀ CÁCH PHÁT ÂM TIẾNG PHẠN 
                       
                      Sau đây chỉ xin ghi cách đọc những âm chính :  
                       
                      Nguyên âm 
                      A, i, u đọc như tiếng Việt nhưng ngắn gọn hơn. 
                      Aâ, ĩ , uâ cũng đọc như trên nhưng kéo dài (â = aa) 
                      E đọc như ê. 
                      O đọc như ô. 
                      Au đọc như ao. 
                       
                      Phụ âm 
                      Bh, dh, gh, đọc như bờ hờ, đờ hờ, gờ hờ nhưng rất nhanh 
                      Ch đọc như tch phiên âm quốc tế 
                      G đọc như gh (gĩta = ghita) 
                      J đọc dj 
                      Sh đọc như là s uốn giọng mạnh. 
                       
                      Sau khi đă trang bị một số tối thiểu hành trang, giờ đây 
                      chúng ta bắt đầu đi vào thần thoại Ấn Độ. 
                       
                      KHỞI NGUYÊN CỦA VŨ TRỤ TRONG THÁNH CA 
                      (Rig-Veda X,129) 
                       
                      Thuở ấy không có Hữu thể mà cũng không có Phi thể, chẳng 
                      có không gian chứa đầy khí trời mà cũng chẳng có tầng trời 
                      nào ở bên kia khoảng không ấy. Cái ǵ bao trùm hết thảy? 
                      Do ai bảo hộ? Phải chăng là trùng dương thăm thẳm khôn ḍ? 
                       
                      Thuở ấy không có chết mà cũng không bất tử, không có ǵ 
                      phân biệt ngày đêm. Đấng Một ấy hô hấp bằng nội lực, không 
                      hề tạo thành hơi thở. Tuyệt nhiên không có cái ǵ hiện hữu 
                      ở ngoài Ấy và khác với Ấy *.  
                      (*) 
                      Có nghĩa là ngoài Tự Ngă ra không c̣n ẩn hiện cái ǵ khác. 
                       
                      Lúc khởi thuỷ, chỉ có bóng tối mịt mù trong bóng tối, toàn 
                      thể vũ trụ là nước mênh mông. Khi ấy, do sức mạnh của 
                      nhiệt tính (tapas), Đấng Một phát sinh giữa hư không. 
                       
                      Trước tiên, tự nơi ấy phát hiện ra dục tính tức là mầm 
                      mống tối sơ của tinh thần. Các thi nhân, đạo sĩ quan sát 
                      nội tâm và dùng minh trí khám phá được mối liên hệ của Hữu 
                      thể trong Phi thể.  
                       
                      Các thần linh ra đời sau sự sáng tạo thế gian này, vậy ai 
                      biết do đâu mà có sáng tạo ?  
                       
                      Sự sáng tạo này do đâu mà có ? Có hay không có sáng tạo? 
                      Chỉ có Đấng Cai Quản thế gian này ở trên tầng trời cao 
                      nhất là có thể biết được. Mà có khi chính Ngài cũng không 
                      biết nữa. 
                       
                      CHÚ 
                      THÍCH: 
                       
                      Đại ư bài này nói khởi thuỷ không phân biệt Hữu và Vo.â 
                      Thực tại tuyệt đối là một cái ǵ ở ngoài mọi giới hạn của 
                      thời không, sinh tử và ư niệm. Tuyệt Đối tự ư thức lấy 
                      ḿnh và cái động lực phát hiện ư thức đầu tiên ấy là 
                      Tapas, bản tính nồng nhiệt của Tuyệt đối. Nhờ Tapas, ngôi 
                      thứ nhất là “Ta” phát hiện. Từ đó, bắt đầu có sự phân biệt 
                      giữa Hữu và Vô, giữa Ta và Không ta, giữa Tâm và Vật, giữa 
                      Thần ngă sáng tạo (Purusha) và vũ trụ hiện tượng 
                      (Prakriti) … 
                       
                      Bản thánh ca kết luận là có một Đấng Cai Quản Tối Cao, 
                      nhưng không biết Ngài có phải là Đấng Sáng Tạo hay không? 
                      Chỉ có một ḿnh Ngài biết, mà có khi chính Ngài cũng không 
                      biết nữa. Ai biết? Đó là bí nhiệm của sự sáng tạo ! 
                       
                      Hăy so sánh với Kinh Cựu ước, Sáng thế thư : Ban đầu Đức 
                      Chúa Trời dựng nên trời đất. Bóng tối bao trùm Vực thẳm, 
                      và Tinh thần Đức Chúa Trời chuyển dịch trên mặt nước mênh 
                      mông. Ngày đầu tiên Đức Chúa Trời phán phải có sự sáng và 
                      do đó phân chia ra ngày đêm; ngày thứ hai Đức Chúa Trời 
                      phân cách ra khoảng không trên trời; ngày thứ ba Đức Chúa 
                      Trời phân ra miền đất cao thảo mộc phồn thịnh và miền nước 
                      tụ là biển; ngày thứ tư Đức Chúa Trời làm ra mặt trời, mặt 
                      trăng, các v́ tinh tú, v́ vậy mà phân chia được ra ngày, 
                      tháng, năm và thời tiết; ngày thứ năm Đức Chúa Trời dựng 
                      nên các loại chim trời, cá biển; ngày thứ sáu Đức Chúa 
                      Trời dựng nên các loài động vật; rồi loài người một nam, 
                      một nữ để quản trị cá biển cùng là muông, thú. Sang ngày 
                      thứ bảy Đức Chúa Trời ban phép lành đặt tên là ngày thánh 
                      : ngày đó Ngài nghỉ v́ đă làm xong mọi công việc.  
                       
                       
                      
                      THƯỢNG ĐẾ – BA NGÔI – VÀ CÁC THẦN LINH 
                       
                      Thượng Đế duy nhất tự hữu hằng cửu là nguyên nhân và cứu 
                      cánh của toàn thể các thần linh và muôn loài trong vũ trụ. 
                      Theo quan niệm của Ấn Độ, con người không thể h́nh dung 
                      Thượng Đế bằng bất cứ một ư niệm hay h́nh ảnh cụ thể nào. 
                      Con người chỉ có thể nhận biết được Thượng Đế qua những vị 
                      thần linh biểu hiện cho quyền năng mầu nhiệm của Ngài.  
                       
                      Cơi Trời (Dyaus), Đất (Aditi), và Mười Hai Nguyên Lư Tối 
                      Cao (Âditya) tức Mười Hai Tháng:  
                       
                      H́nh ảnh tiếp cận nhất có thể biểu hiện cho Thượng Đế toàn 
                      diện là Cơi Trời (Dyaus) chứa đựng toàn thể vũ trụ. 
                       
                      Cùng với Cơi Trời (Dyaus) là Cha tượng trưng cho Tinh 
                      thần, có Đất (Aditi) là Mẹ tượng trưng cho Vật chất. Do 
                      hai nguyên lư này mà sinh ra Mười Hai Nguyên Lư Tối Cao 
                      (Âditya) điều hành mọi sinh hoạt giữa Trời và Đất, cai 
                      quản chư thần và loài người. (Nói vậy v́ mười hai tháng 
                      trong năm khi chuyển vận lôi cuốn theo tất cả thế gian)*.
                       
                      (*) Bộ ba Dyaus-Aditi-Âditya (Cha-Mẹ-Con) với tính cách 
                      nhất nguyên, có thể ví như quan niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi 
                      Cha-Con-Thánh-thần trong Thiên Chúa Giáo. Lại cũng có thể 
                      ví như quan niệm trong Kinh Dịch về Âm, Dương và các h́nh 
                      thái biểu hiện do sự giao hoà của hai nguyên lư ấy.  
                       
                      Các thần linh trong Veda ngụ khắp ba cơi : Thần cai quản 
                      Hạ giới là Lửa (Agni); thần cai quản Không trung la` Gió 
                      (Vâyu) và thần cai quản Thiên giới là Mặt trời (Suârya). 
                      Đó là Ba ngôi tối linh Tri-murti trong Veda. 
                       
                      CHÚ 
                      THÍCH: 
                       
                      Về nguyên lư ba ngôi là Dyaus-Aditi-Âditya; về thể hiện 
                      th́ Tam linh vị là Thần lửa Agni, Thần gió Vâyu và Thần 
                      mặt trời Suârya. V́ vậy, Đất và Lửa là một, Bầu Trời và 
                      Không Khí là một, Cơi Trời và Mặt Trời là một. Cả ba vừa 
                      là Thể vừa là Dụng của cùng một bản chất và là ba yếu tố 
                      căn bản của đời sống. Sau đây Ba Ngôi tối linh c̣n là : 
                      Thần Sáng Tạo Brahmâ, Thần Bảo Tồn Vishnu và Thần Huỷ Diệt 
                      Shiva. 
                       
                      Lại c̣n có nhiều quan niệm khác về Ba Ngôi, tỉ như quan 
                      niệm về ba phẩm tính trong thiên anh hùng ca Mahâbhârata 
                      (sẽ đọc sau đây) là : Thuần khiết hay Tri thức (Sattva) có 
                      tác dụng Quy tâm, T́nh cảm hay Hành Động (Rajas) có tác 
                      dụng điều hoà; và Ô trọc hay Ngu tối (Tamas) có tác dụng 
                      ly tán; hoặc quan niệm phái Vedânta về Thực hữu (Sat), Trí 
                      thức (Chit) và An lạc (Ananda). 
                       
                       
                      THẦN 
                      LỬA AGNI 
                       
                      Thần lửa Agni được coi là bản chất chung của ba ngôi. Lửa 
                      thể hiện dưới nhiều h́nh thức nhưng chỉ có riêng ngọn lửa 
                      thiêng trong cuộc tế lễ, do sự cọ sát hai mảnh gỗ tạo nên 
                      mới được coi là sự hiện diện đích thực của Agni. Ở hạ 
                      giới, Thần lửa Agni được giữ sứ mạng làm trung gian giữa 
                      loài người với các thần linh, chuyển đạt lên chư thần 
                      những lễ vật do loài người dâng cúng.  
                       
                      Thần Lửa Agni c̣n được mệnh danh là Đấng thấm nhập khắp 
                      nơi (Vaishvânara). Ngay trong cơ thể sinh vật, lửa là khả 
                      năng hấp thụ và tiêu hoá, động cơ của sự sống. Bản tính 
                      của lửa là soi sáng cả ngoại giới lẫn nội giới. Hiểu được 
                      bản tính của Lửa là hiểu được bản tính của toàn thể vũ 
                      trụ. 
                       
                      Về h́nh tượng, Thần Lửa Agni ḿnh đỏ và vàng, có hai đầu, 
                      bảy lưỡi, và bốn tay cầm một chiếc ŕu, một ngọn đuốc, một 
                      cây quạt và một chuỗi hạt. Thần Lửa Agni thường cưỡi một 
                      con cừu đực, hoặc ngồi trên xe có bảy con ngựa kéo. Khói 
                      là cờ, gió là bánh xe, Agni đi đến đâu là hoả thiêu tới 
                      đó, hung hăn như mănh hổ giữa đàn cừu, như thác lũ đổ 
                      xuống đồng bằng. Tuy vậy, Thần Lửa Agni vẫn là thần bảo hộ 
                      của loài người, là vị chủ tế (hotri) trong các buổi lễ, 
                      ban phát ánh sáng và hơi ấm cho nhân loại.  
                       
                      CHÚ THÍCH 
                      Lửa thể hiện dưới nhiều h́nh thức. Có mười h́nh thức 
                      chính; năm h́nh thức tự nhiên và năm h́nh thức tế tự.  
                       
                      Năm ngọn lửa tự nhiên là : Agni (Lửa trần gian), Indra 
                      (Sét ở không gian), Suârya (Mặt trời ở Thiên giới), 
                      Vaishvânara (Nhuận thắp) và Vâdevagani (Lửa phá hoại). 
                       
                      Năm ngọn lửa tế tự là : Brahma-agni, lửa thiêng trong buổi 
                      lễ; Prâjâpatya-agni là lửa trao cho thiếu niên tu học 
                      (brahmacharya) khi làm lễ khai hoá (upanuyana); 
                      Gârhapatya-agni là lửa trong gia đ́nh không bao giờ được 
                      để tắt; Dakshine-agni là lửa dùng trong khi cúng tổ tiên 
                      hoặc các vong hồn; và sau hết là Kravyada-agni tức là ngọn 
                      lửa thiêng trên giàn hoả táng.  
                       
                      THẦN 
                      GIÓ VÂYU 
                       
                      Thần Gió Vâyu được coi là hơi thở của Lửa, có nhiệm vụ 
                      thánh tẩy và cùng với Lửa chuyển lễ vật lên các thần linh. 
                       
                      Về h́nh tượng, Vâyu là một vị thần ḿnh trắng, dũng mănh, 
                      cưỡi con linh dương, mang theo cung và tên. Tất cả các món 
                      trang phục khác của Vâyu đều màu trắng cả. 
                       
                      Đôi khi Vâyu cùng Indra (Thần Sét) ngự trên chiếc xe bằng 
                      vàng có một ngàn con ngựa kéo và có thể chạy thẳng đến 
                      trời. 
                       
                      Dũng sĩ Bhĩma trong thiên anh hùng ca Mahâbhârata và Thần 
                      Khỉ Hanuman trong thiên anh hùng ca Râmayâna đều là con 
                      của Vâyu và đều có tài đi nhanh như gió cuốn.  
                       
                      Xưa có một hôm đạo sĩ Nâranda thỉnh cầu Vâyu thổi găy đỉnh 
                      núi Meru. Vâyu thổi một trận cuồng phong kéo dài suốt một 
                      năm mà không có kết quả v́ thần điểu Garuda (do thần 
                      Vishnu thường cưỡi) đă xoè cánh che ngọn núi và cản sức 
                      mạnh của cuồng phong. Đạo sĩ Nâranda bèn đề nghị với Thần 
                      Vâyu chờ khi nào Garuda đi vắng hăy tấn công. Quả nhiên cơ 
                      hội này đến và Vâyu thổi bay chóp núi Meru ra tận ngoài 
                      biển, biến thành ḥn đảo Lankâ tức là xứ Ceylon (Tích Lan) 
                      bây giờ. 
                       
                      CHÚ 
                      THÍCH: 
                      Vâyu do tự căn Vâ có nghĩa là thổi. Trong kinh Upanishad 
                      (Áo Nghĩa Thư), Vâyu được mô tả là sinh khí của vũ trụ, là 
                      mạch sống của muôn loài, là bản chất, uyên nguyên của 
                      Thượng Ngôn (Vâc) cũng như Ngôi Lời (Verbe) trong Sáng thế 
                      thư. 
                       
                      Vâyu cũng có nghĩa là “thấm nhập, tràn lan”. Sách 
                      Brihad-devatâ ghi : “Ngài ngự trong không gian, thấm nhập 
                      và tràn đầy ba cơi. Các bậc tiên tri tôn thờ và gọi Ngài 
                      là Vâyu”.  
                       
                      THẦN 
                      MẶT TRỜI SUÂRYA 
                       
                      Thần Mặt Trời Suârya* là nguồn sáng của vũ trụ , là nguồn 
                      minh trí của tất cả các sinh vật biểu thị bởi mười hai 
                      nguyên lư tối cao (Âditya), là cửa mở vào con đường đưa 
                      tới thần linh, là nguyên nhân và cứu cánh của tất cả những 
                      ǵ hiện hữu trong quá khứ, hiện tại và vị lai, tất cả 
                      những ǵ sinh động và bất động. 
                      (*)Suârya do tự căn Sur hay Svar nghĩa là sáng chói 
                       
                      Về h́nh tượng, Suârya là một vị thần ḿnh màu đồng đỏ, tóc 
                      và râu màu vàng, ngự trên một chiếc xe một bánh do bảy 
                      ngựa kéo, đôi khi do Rồng (Naga) kéo. Suârya đội vương 
                      miện và đeo ṿng, tất cả đều toả hào quang chói lọi khắp 
                      mọi phương trời. 
                       
                      Thần Mặt Trời Suârya có bốn vợ: Samjnâ (Trí thức)**, Rajni 
                      (Hoàng hậu), Prabhâ (Ánh sáng) và Châyâ (Bóng Tối). Suârya 
                      có nhiều con, trong số có Yama (Tử thần). 
                      (**) C̣n có tên là Saranyuâ (Mây) 
                       
                      Tương truyền rằng Samjnâ không thể chịu nổi sức nóng của 
                      chồng lâu được, nên phải trốn vào rừng đi tu, nhờ các 
                      thiên thần tạo ra nàng Châyâ có dung mạo giống hệt ḿnh để 
                      đánh lừa Suârya. Khi khám phá ra sự thật, Suârya đi kiếm. 
                      Samjnâ bèn biến thành con ngựa cái. Suârya cũng lập tức 
                      biến thành con ngựa đực để theo vợ. V́ thế mà Samjnâ sinh 
                      ra một cặp sinh đôi, ḿnh người đầu ngựa, tức là hai thần 
                      Ashivins, thần của nhà nông và cũng là thần y chữa bệnh 
                      cho chư Thần. Sau đó Suârya dẫn vợ về nhà. 
                       
                      Cha vợ là Tvashtri (Hoá công) muốn cho con gái khỏi bị đau 
                      đớn v́ sức nóng, bèn xén bớt một ít tia sáng của Suârya. 
                      Những mảnh này được tạo thành cái đĩa của Thần Bảo Tồn 
                      Vishnu, cái chĩa ba của Thần Huỷ Diệt Shiva, cái chuỳ của 
                      Thần Tài Sản Kubera, cùng là khí giới của nhiều thần linh 
                      khác nữa. 
                       
                      MẤY 
                      LỜI GHI CHÚ: 
                      Thoạt kỳ thuỷ ba ngôi trong thần thoại Ấn Độ là vậy : Cơi 
                      Trời – Mặt Trời; Không Trung – Gió; Đất – Lửa. Về sau quan 
                      niệm Ấn Độ chú trọng vào phương diện hành động. Theo quan 
                      niệm mới này, bất cứ một hành động nào, kể cả hành động 
                      của Thượng Đế cũng biểu thị cho một trong ba khuynh hướng 
                      tất yếu và căn bản : Sáng Tạo, Bảo Tồn và Huỷ Diệt. Do đó 
                      suy lên đến hành động khởi nguyên của Thượng Đế, người ta 
                      có thể nhận biết Ngài qua Ba Ngôi chủ động : Đấng Sáng 
                      Tạo, Đấng Bảo Hộ và Đấng Hủy Diệt (Brahmâ, Vishnu và 
                      Shiva). Ta luôn luôn phải nắm vững đường lối suy tư truyền 
                      thống của Ấn Độ mà nhớ rằng ba khuynh hướng trên bất khả 
                      phân và có liên hệ nhân quả với nhau. Tuy ba mà một, tuy 
                      một mà ba. Sáng tạo để bảo tồn rồi huỷ diệt; hủy diệt để 
                      sáng tạo rồi bảo tồn; bảo tồn để huỷ diệt rồi sáng tạo. Cứ 
                      thế tiếp diễn theo một chu kỳ bất tận. Bây giờ chúng ta 
                      bắt đầu đi và thần thoại Ba Ngôi Tối Linh dưới diện mạo 
                      mới. Thoạt cần phải biết thế nào là Kalpa 
                       
                       
                      KALPA 
                       
                      Kalpa là một kiếp của vũ trụ, lâu bằng một ngày của Brahmâ 
                      (Thần Sáng Tạo), tính ra là 4.320.000.000 năm. Mỗi Kalpa 
                      gồm có 1.000 đại kỷ nguyên (Mâhâ-yuga). Mỗi đại kỷ nguyên 
                      gồm có 4 thời đại kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định: 
                       
                      1. Kritayuga tức là thời hoàng kim, lâu 1.728.000 năm, 
                      trong đó nhân loại sống trong hạnh phúc tuyệt đối, mầm ác 
                      chưa xuất hiện. 
                      2. Tretâyuga tức Bạch ngân thời đại, lâu 1.296.000 năm, 
                      trong đó mầm ác bắt đầu xuất hiện, gây nên những chuyện 
                      bất hoà trong nhân loại. 
                      3. Dvâpara-yuga tức lưỡng tính thời đại, lâu 864.000 năm, 
                      trong đó tính ác đă phát triển ngang sức với tính thiện, 
                      mâu thuẫn và xung đột mỗi ngày một nhiều. 
                      4. Kati-yuga tức Hôn ám thời đại, lâu 432.000 năm, trong 
                      đó tính ác tràn ngập, tính thiện mất dần, nhân loại sống 
                      trong hỗn loạn đau khổ. 
                       
                      Vào cuối mỗi đại kỷ nguyên, tức là vào cuối mỗi Kali-yuga, 
                      thần Vishnu sẽ xuất hiện dưới tên Kalki, tiêu diệt nhân 
                      loại trong một trận hồng thuỷ hay đại hoả tai, rồi sau đó 
                      tái thiết một đại kỷ nguyên mới. 
                       
                      Cuối mỗi Kalpa sẽ xảy ra một vụ huỷ diệt (pralaya) của 
                      toàn thể vũ trụ. Vụ hủy diệt này mở đầu cho đêm của Brahmâ 
                      khi thần này đi ngủ. Hết một đêm, thời gian dài bằng một 
                      Kalpa, Brahmâ tỉnh giấc, lại bắt đầu một Kalpa khác của Vũ 
                      Trụ tái sinh. 
                       
                      Cuộc đời của Brahmâ sẽ thọ 100 năm (tính theo mỗi ngày của 
                      Brahmâ như trên). 
                       
                      Khi Brahmâ chết, ngày đó sẽ xảy ra một vụ đại huỷ diệt 
                      (mahâpralaya) : toàn thể vũ trụ và thế giới thần linh đều 
                      chết hết. Một trăm năm sau nữa, Brahmâ tái sinh, ṿng sáng 
                      tạo và huỷ diệt lại bắt đầu. 
                       
                      Tính cho đến nay, Brahâm vừa được 50 tuổi. 
                       
                      CHÚ 
                      THÍCH : 
                       
                      Hôn ám thời đại (Kali-yuga) chính là thời đại này của nhân 
                      loại. Theo sự tính của người Ấn Độ th́ hiện nay chúng ta 
                      đang sống trong khoảng năm 6.000 của kỷ nguyên Kaliyuga, 
                      c̣n cách ngày tận thế 426.000 năm nữa. 
                       
                      
                      BRAHMÂ ĐẤNG SÁNG TẠO 
                       
                       
                      Brahmâ là Đại Tổ (Pitâmaha) tức là cha chung của muôn 
                      loài, là đấng tự sinh tự hữu (Svayambhuâ). Cuộc đời của 
                      Brahmâ chia ra ngày và đêm; ngày thức đêm ngủ. Khi Brahmâ 
                      thức, vạn vật sinh trưởng; khi Brahmâ ngủ, vũ trụ tiêu 
                      tan, nhưng sẽ tái sinh khi Brahmâ lâu bằng 4.320.000.000 
                      năm ở trần gian; một đêm cũng lâu như vậy. Hiện nay Brahmâ 
                      đă 50 tuổi và sẽ sống lâu 100 tuổi. (Xem phần nói về Kalpa 
                      trên). 
                       
                      Về h́nh tượng, Brahmâ có màu da đỏ hồng (màu đỏ tượng 
                      trưng cho nguyên lư sáng tạo trong thiên nhiên). Brahmâ có 
                      bốn đầu ngoảnh nh́n về bốn phía biểu thị ư nghĩa quán 
                      triệt khắp vũ trụ của Tứ Veda. Brahmâ có bốn tay : cầm bốn 
                      pho Veda, hoặc có khi Brahmâ nắm bốn pho Veda ở tay thứ 
                      nhất, tay thứ hai cầm trượng, tay thứ ba cầm cây cung và 
                      tay thứ tư cầm một b́nh nước. Brahmâ thường cưỡi con Thiên 
                      Nga (Hamsa) tượng trưng cho trí thức. 
                       
                      Về phẩm tính, Brahmâ là nguồn gốc của trí thức, và vợ của 
                      Thần, nàng Sarasvâti, là h́nh ảnh nhân hoá của trí thức. 
                      Chính Brahmâ đă truyền thụ trí thức tuyệt đối 
                      (Brahmâ-vidya) cho đạo sĩ Atharvan, tác giả bộ 
                      Atharva-Veda. Brahmâ cũng dạy áo nghĩa về vô biên (Brahmâ 
                      Upanishad) cho Brajâpati (Đấng SángTạo, một danh hiệu của 
                      Thượng Đế hữu ngă). 
                       
                      Brahmâ say mê nàng Ushas (Rạng đông), có cùng nàng một 
                      người con trai là Manu, tổ của loài người và muôn vật, tác 
                      giả của nhiều bộ pháp điển được gọi chung là Manu-samhitâ 
                      hay Manu-smriti. 
                       
                      Thần Brahmâ có nhiều liên hệ mật thiết với nghệ thuật : 
                      kiến trúc, hội hoạ, khiêu vũ, âm nhạc và kịch nghệ; thảy 
                      đều là những cố gắng ca ngợi Thiêng Liêng, đồng thời phổ 
                      cập hào quang vinh hiển của Thiêng Liêng nơi trần thế. 
                       
                      Một lần chư thần trên thiên giới cảm thấy chán nản v́ cuộc 
                      sống thiếu hoạt động tại nơi đây bèn phái Indra tới yêu 
                      cầu thần Brahmâ soạn cho một vở kịch để cùng thưởng thức. 
                      Brahmâ bèn tham bác bốn bộ Veda cũ, soạn ra bộ Veda thứ 
                      năm mệnh danh là Nâtya-veda (Veda về kịch nghệ) : phần đọc 
                      tụng, ngâm nga rút ở Rig-veda; lời ca điệu múa gợi cảm lần 
                      lượt rút ở trong Sâma, Yagur và Atharva veda (ca vịnh, tế 
                      tự và cầu đảo). Khi soạn xong, Brahmâ nhờ Vishva-karman 
                      (Hoá công) dựng lên một hí viện ở Thiên Đường của Indra. 
                      Shiva đóng vai vũ công múa điệu Tândava tượng trưng cho sự 
                      vận hành của vũ trụ. Vợ Shiva, nàng Pârvati* múa điệu 
                      Lâysya; vũ điệu về t́nh ái. Vở ca vũ nhạc kịch đă thành 
                      công rực rỡ, thổi lại luồng sinh khí tưng bừng, chói lọi 
                      vào nếp sống chư thần trên thiên giới từ đấy. 
                       
                      (*)Pârvati, nghĩa đen là sơn nữ. Trong thần thoại Ấn Độ, 
                      Parvâti là con gái của sơn thần Himavant, tức là núi tuyết 
                      Himâylay. 
                       
                      CHÚ 
                      THÍCH: 
                       
                      C̣n có nhiều truyền thuyết khác nhau về lai lịch Brahmâ. 
                      Một truyền thuyết kể rằng Brhamâ ra đời do cuộc phối hợp 
                      giữa đấng tối cao với năng lực của Ngài là Mâyâ (Ảo 
                      tưởng). Một truyền thuyết khác lại nói Brahmâ sinh ra tự 
                      một quả trứng vàng (kim noăn Hiranya-garba) trôi nổi trên 
                      mặt biển nguyên thủy vô biên. Sau khi nằm trong trứng được 
                      một năm, Brahmâ phân vỏ trứng làm đôi, một nửa làm thành 
                      ṿm trời, một nửa làm thành đất, khoảng giữa là không 
                      trung. Thuyết thứ ba cho rằng Brahmâ sinh ra tự một bông 
                      sen mọc ở rốn của Thần Bảo Tồn Vishnu. H́nh ảnh này tượng 
                      trưng ư nghĩa tái sinh do những mầm mống của tiền kiếp 
                      được bảo tồn trong Vishnu. Và cũng do điển tích này, 
                      Brahmâ c̣n có tên là Nabhi-ja (tự rốn sinh ra), hoặc 
                      Abja-ja (tự bông sen sinh ra). 
                       
                      Chính ra Brahmâ có 5 đầu, bị Shiva hủy mất một nên chỉ c̣n 
                      bốn. Sự tích Brahmâ có 5 đầu thường được kể như sau : 
                      “Brahmâ lấy chất vô nhiễm của ḿnh tạo thành một người đàn 
                      bà. Nữ thần này được thờ với nhiều tên khác nhau là 
                      Shataruâpâ (Bách Tướng), Vâc (Thượng Ngôn cũng như Ngôi 
                      Lời) hay Sarasvâti (Hùng Biện), Savitĩ (Thánh Mẫu), 
                      Gâyatri (Thánh Ca) và Brahmani (vợ của Brahmâ). Khi ngắm 
                      người con gái do chính ḿnh tạo ra, Brahmâ bị mê hoặc bởi 
                      dục tính, Shararuâpâ phải lẩn về phía tay mặt để Brahmâ 
                      khỏi nh́n thấy. Brahmâ bèn mọc thêm một đầu trông ra phía 
                      mặt; nàng lẩn về phía trái; Brahmâ mọc thêm một đầu ra 
                      phía trái; nàng lẩn về phía sau, Brahmâ mọc thêm một đầu 
                      trông ra phía sau; cuối cùng nàng bay lên không, Brahmâ 
                      lại mọc thêm một đầu thứ năm để ngắm nh́n nàng.” 
                       
                      C̣n về việc Brahma bị Shiva hủy mất cái đầu thứ năm cũng 
                      có nhiều truyền thuyết. Truyện th́ cho là v́ chính miệng 
                      của đầu ấy khoe rằng Brahmâ ưu thế hơn Shiva; truyện th́ 
                      cho rằng v́ miệng ở đầu ấy đă nói dối trong một cuộc tranh 
                      tài giữa Brahmâ và Vishnu; truyện th́ kể v́ Brahmâ phạm 
                      tội loạn luân nên Shiva bèn trừng phạt bằng cách chiếu con 
                      mắt thứ ba vào cái đầu ấy và đốt nó ra tro.  
                       
                      Trong ư nghĩa triết học, Brahmâ biểu thị khuynh hướng vận 
                      động điều ḥa (rajas), tạo nên thế quân b́nh giữa hai 
                      khuynh hướng qui tâm (sattva) và ly tâm (tamas), giữa bảo 
                      tồn và hủy diệt mà thần Vishnu và Shiva là biểu hiện. 
                      Chính cái tác dụng điều động quân b́nh ấy mới thực sự là 
                      nguyên lư sáng tạo, bởi vậy Brahmâ biểu thị cho sự sáng 
                      tạo. 
                       
                      Mặc dầu vai tṛ của Brahmâ có vẻ quan trọng nhất, địa vị 
                      của Brahmâ lại sút kém nhất trong ba ngôi tối linh. Lư do 
                      có thể v́: 
                      - Đứng ở phương diện đạo đức, Brahmâ đă phạm tội dối trá 
                      và loạn luân. Thần thoại trên đây đă kể do sự phối hợp của 
                      Brahmâ và Ushas (Rạng Đông) mà sinh ra Manu, tổ của loài 
                      người và muôn vật. Ushas chính là con gái của thần. 
                      - Đứng về phương diện triết lư mà suy th́ v́ có sự sáng 
                      tạo của thần mà con người phải đắm ch́m trong bể khổ , 
                      trong ṿng thiện, ác xung đột và bị tách rời khỏi chân lư 
                      và hạnh phúc tuyệt đối. Như vậy sáng tạo không hẳn là một 
                      hành động đầy ân phước mà chính là một hành động đọa đày, 
                      nếu không bị chống đối th́ cũng chẳng đáng được sùng bái 
                      nhiệt thành. 
                       
                      THẦN 
                      HỦY DIỆT SHIVA 
                       
                      Dưới h́nh ảnh như nhân, Shiva có nước da trắng tượng trưng 
                      cho bản chất thuần túy của tất cả màu sắc. Shiva có ba mắt 
                      tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và ngọn lửa thế gian, 
                      có thể nh́n thấu quá khứ, hiện tại và tương lai. Mái tóc 
                      rối của Shiva tượng trưng thần gió. Mái tóc đó cũng tượng 
                      cho sức mạnh v́ sông Hằng Hà linh thiêng khi nhận lời cầu 
                      xin của một đạo sĩ thấu thị (Rishi) xuống trần, Shiva đă 
                      phải xơa tóc cho ḍng nước xuôi theo và đổ xuống nhẹ 
                      nhàng, nếu không th́ thế gian đă rung chuyển và xụp đổ tan 
                      tành. 
                       
                      Một hôm thần Brahmâ trông thấy thần Vishnu đang nằm trên 
                      một chiếc lá sen trên mặt nước nguyên thủy, Brahmâ hỏi 
                      danh tính. Vishnu bèn xưng danh và kêu Brahmâ bằng con. 
                      Brahmâ tức giận và tuyên bố chính ḿnh mới là đấng sáng 
                      tạo và hủy diệt vũ trụ. Vishnu bát bỏ lời của Brahmâ, 
                      cương quyết cho ḿnh mới là đấng sáng tạo, bảo tồn và hủy 
                      diệt vũ trụ. Hai bên đang căi cọ tranh giành ngôi thứ, th́ 
                      bỗng hiện ra một cột lửa cao ngất tưởng chừng như không có 
                      khởi nguyên. Hai thần bèn ngừng cuộc tranh luận và đồng ư 
                      chia nhau đi t́m đầu và cuối của cột lửa. Vishnu đi xuống 
                      dưới gốc và Brahmâ đi lên phía ngọn. Sau một thời gian 
                      thám hiểm rất lâu, cả hai đều không đạt được mục đích và 
                      phải trở về nơi gặp gỡ ban đầu. Vừa khi đó không gian bỗng 
                      vang lên âm thanh linh thiêng của tiếng AUM* và Shiva xuất 
                      hiện giữa cột lửa khiến cả Brahmâ và Vishnu đều cảm thấy 
                      hân hoan. Khi ấy Shiva bèn nói cho hai thần biết rằng 
                      không có ai hơn, ai kém, và ba ngôi tối linh 
                      Brahmâ-Vishnu-Shiva chỉ là ba tác dụng khác nhau của cùng 
                      một bản thể.  
                      (*) AUM : Linh ngôn, âm thanh linh thiêng biểu thị quyền 
                      năng về cả ba phương diện : sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt. 
                      AUM cũng là thần chú đọc trong các buổi tế lễ, và có lẽ là 
                      gốc của tiếng UM trong Việt ngữ. 
                       
                      Shiva có hai đời vợ nhưng cùng là một người trải qua hai 
                      kiếp. Kiếp thứ nhất nàng tên là Satĩ (Hiền phụ), con gái 
                      của Daksha (Tài Trí), một trong tám vị thần sáng tạo do 
                      Brahmâ tạo ra. Daksha vốn không vưa Shiva v́ Shiva thường 
                      có bề ngoài là một đạo sĩ khất thực tiều tụy và không tỏ 
                      thái độ tôn kính ḿnh. Daksha đă đuổi Satĩ ra khỏi địa 
                      phận của ḿnh khi nàng nhất định chọn Shiva làm chồng.  
                       
                      Một lần Satĩ về nhà vào dịp làm lễ mừng thần Vishnu, 
                      Daksha đă không tiếc lời nhục mạ nàng cùng Shiva. Satĩ bèn 
                      thoát hồn trả lại thân xác cho cha. Shiva nổi giận, giết 
                      chết Daksha tức th́.  
                       
                      Satĩ tái sinh làm con gái của thần núi Himâlaya (Núi 
                      Tuyết), mang tên là Umâ Himavutee và thường được gọi là 
                      Pârvatĩ (Sơn nữ). Sau nhiều lần thử thách về đức tính, 
                      Shiva lấy Pârvatĩ làm vợ.  
                       
                      Chúng ta c̣n nhớ Shiva đă múa vũ điệu Tândava, tượng trưng 
                      cho sự vận hành của vũ trụ tại hí viện Thiên Đàng của thần 
                      sét Indra. Khi nhảy múa như vậy, Shiva đă cho phát ra năm 
                      cung điệu căn bản. Khi vợ Shiva là nàng Pârvatĩ cất tiếng 
                      hát th́ có thêm một cung điệu thứ sáu. Sự kết hợp giữa 
                      Shiva và Pârvatĩ biểu thị sự kết hợp giữa Chất và Năng 
                      chuyển hóa thành các âm điệu và cung bậc. Các cung điệu có 
                      liên hệ với toàn thể vũ trụ v́ mỗi cung âm có một giá trị 
                      riêng biểu thị cho một hệ thống tinh thể, và toàn thể hệ 
                      thống tinh thể chính là nguồn gốc các âm thanh phát ra 
                      trong vũ trụ. 
                       
                      Con trai lớn của cặp vợ chồng Shiva- Pârvatĩ là Kârttikeya 
                      đă có công diệt được quỷ Târaka, đem lại yên vui cho thế 
                      giới thần linh và được thờ làm thần chiến tranh. 
                       
                      Con thứ hai của Shiva và Pârvatĩ là Ganesha, ḿnh người 
                      đầu voi, được tín đồ Ấn Độ giáo tin thờ như một phúc thần, 
                      ban phát hạnh phúc thịnh vượng cho nhân loại.  
                       
                       
                      CHÚ 
                      THÍCH: 
                      Shiva là vị thần tiền Veda cổ xưa nhất của dân bản xứ Ấn 
                      độ; đến khi đồng hóa với dân tộc Aryan, Shiva đă thay thế 
                      cho thần Băo Rudra trong Veda để làm giảm bớt cái ư nghĩa 
                      ghê gớm của danh hiệu Rudra. Sống với chết không những chỉ 
                      tiếp nối nhau mà c̣n đồng nhất với nhau. Với tư cách 
                      nguyên lư của sáng tạo, Shiva là nguồn sống. Nhưng tại sao 
                      người ta lại coi Shiva là biểu hiện cho hủy diệt (Tamas)? 
                      Tamas nghĩa đen là tối tăm, biểu thị cho khuynh hướng ly 
                      tâm, hủy diệt (trái với sattva biểu thị cho khuynh hướng 
                      quy tâm, xây dựng). Vũ trụ càng phân tán tức là càng tan 
                      ră, ḥa đồng vào đêm tối của vô chất nguyên thủy, chấm dứt 
                      mọi sự phân biệt trong không gian và thời gian. “Hữu h́nh 
                      tất hữu hoại” là định luật thiên nhiên tất yếu. Từ u tịch 
                      mà có sự sống, sự sống lại trở về u tịch, bởi thế tamas 
                      vừa là nguyên nhân, vừa là cứu cánh của mọi đời sống, và 
                      v́ cứu cánh quan trọng hơn hết nên Shiva được mệnh danh là 
                      thần hủy diệt.  
                       
                      Với ư nghĩa ấy, Shiva c̣n được mệnh danh là thần của giấc 
                      ngủ. Khi mọi người đă chán hành động, chán sống, chán 
                      biết, chán lạc thú và đau khổ, và đi t́m một sự yên nghỉ 
                      thực sự trong giấc ngủ say không mộng. Khi ấy họ trở về 
                      với Chúa tể của giấc ngủ, chốn yên tịnh, cực lạc (Sambha). 
                      Ơũ nơi đó vũ trụ nghỉ ngơi và an giấc.  
                       
                      THẦN 
                      BẢO TỒN VISHNU 
                       
                      Hai h́nh ảnh thông thường nhất cho ta thấy Vishnu nằm nghỉ 
                      trên ḿnh của xà thần Shesha (Di Tích), bềnh bồng trên mặt 
                      biển nguyên thủy Ananta (Vô Biên), hoặc Vishnu đứng thẳng, 
                      bốn bàn tay nắm giữ bốn vật tượng trưng là vỏ ốc, đĩa 
                      tṛn, bông sen và cái chùy. Vỏ ốc tượng trưng ngũ hành; 
                      cái đĩa sáng như mặt trời tượng trưng thần trí; bông sen 
                      tượng trưng vũ trụ vận hành; và cái chùy tượng trưng cho 
                      trí thức nguyên thủy.  
                       
                      Về hóa thân (Avâtara) th́ có nhiều, nhưng thông thường 
                      người ta chỉ nói đến mười kiếp hóa thân của Vishnu trong 
                      mỗi đại kỷ nguyên (mâhayuga). Đó là :  
                      1. Matsya (Cá) cứu cho Manu, tổ loài người, thoát khỏi nạn 
                      hồng thủy. Chuyện này khiến cho chúng ta liên tưởng đến 
                      chuyện Noé và chiếc tàu trong Kinh Thánh vào dịp đại hồng 
                      thủy, nước dâng lên trên mặt đất trọn một trăm năm mươi 
                      ngày. 
                      2. Kârma (Rùa), giúp cho chư thần vét Biển Sữa (Samudra 
                      mathana) để thâu hồi những sinh vật và dụng cụ cần thiết 
                      đă bị thất lạc trong trận hồng thủy. 
                      3. Vâraha (Lợn rừng) kéo mặt đất ch́m dưới đáy đại dương 
                      lên mặt nước để cho muôn loài cư ngụ.  
                      4. Narasimha (Nhân Sư), ḿnh người đầu sư tử, giúp cho 
                      Prahlâda, con trai quỷ vương Hyranya Kashipu, thoát khỏi 
                      nanh vuốt của cha y để có thể tu thành chính quả. 
                      Bốn kiếp hóa thân trên đây thuộc đệ nhất kỷ nguyên, tức 
                      Kritayuga, thời đại hoàng kim. 
                      5. Vâmana (Người Lùn) dùng mưu để truất ngôi của Quỷ vương 
                      Bali khi ấy đang làm chúa tể ba cơi (Trời, Đất, Địa Ngục). 
                      6. Parashu Râma (Râma cầm ŕu), hai mươi mốt lần tiêu diệt 
                      đẳng cấp chiến sĩ (Kashatriya) để lấy lại uy quyền cho 
                      đẳng cấp Bà La Môn (Brâhmana). 
                      7. Ông hoàng Râma, nhân vật chính của thiên anh hùng ca 
                      Râmâyana, và là vua xứ Ayodhyâ, tiêu diệt quỷ vương Râvana 
                      xứ Lankâ (Tích Lan ngày nay) để cứu văn ḥa b́nh và công 
                      lư. (Sẽ đọc sau đây).  
                      Ba kiếp hóa thân trên đây thuộc đệ nhị kỷ nguyên, tức 
                      Tretâyuga, thời đại bạch ngân. 
                      8. Krishna (ông Hoàng đào hoa), nhân vật quan trọng trong 
                      thiên anh hùng ca Bhagavad-gitâ, chỉ dẫn cho nhân loại làm 
                      thế nào thực hiện được giải thoát.  
                      Krishna xuất hiện vào cuối Đệ tam kỷ nguyên tức 
                      Dvâpara-yuga, thời đại thiện ác quân b́nh. 
                      9. Buddha (Phật) xuất hiện để giải thoát nhân loại bằng tứ 
                      diệu đế và bát chánh đạo. 
                      10. Kalki (Thành Tựu) chưa xuất hiện. Thần này sẽ ngự trên 
                      ḿnh ngựa trắng, tay cầm thanh kiếm sáng như sao chổi, và 
                      khi xuất hiện, toàn thể vũ trụ sẽ bị tiêu diệt để sau đó 
                      lại được tái thiết lập trong một đại kỷ nguyên mới, mở đầu 
                      bằng thời đại hoàng kim.  
                      Buddha và Kalki thuộc đệ tứ kỷ nguyên, tức Kali-yuga, thời 
                      đại hỗn loạn. 
                       
                      CHÚ 
                      THÍCH: 
                      Cũng như giữa hai đầu sinh và tử là sự sống, giữa thần 
                      Sáng Tạo Brahmâ và thần Hủy Diệt Shiva, có thần Bảo Hộ 
                      Vishnu. Vishnu sẵn sàng che chở và cứu giúp con người. Khi 
                      cần đến, Vishnu sẽ giáng trần để trực tiếp ra tay tế độ 
                      chúng sinh. Bởi bản tính tốt lành ấy, đền thờ Vishnu đầy 
                      rẫy khắp Ấn Độ và người ta đă mệnh danh Vishnu bằng những 
                      danh hiệu vô cùng tốt đẹp như Thánh của các Thánh 
                      (Pavitram pvitrânâm), Đạo (Marga), chân lư (Tattva), Từ 
                      phụ (Pitâ), Thân Hữu (Suhrid)… 
                       
                      Danh từ Vishnu do tự căn Vish nghĩa là tràn lan thấm nhập. 
                      Vishnu biểu hiện phẩm tính thuần khiết (Sattva) có khuynh 
                      hướng quy tâm, trái với phẩm tính hủy diệt (Tamas) có 
                      khuynh hướng ly tâm mà Shiva là biểu hiện. 
                       
                      Ấn Độ Giáo dường như không muốn thừa nhận Phật là hóa thân 
                      của Vishnu v́ đường lối Phật trái ngược với chế độ tứ đẳng 
                      cấp của truyền thống Ấn Độ Giáo. 
                       
                      Dư luận các học giả trên thế giới th́ nhiều người lấy làm 
                      lạ về điểm đạo Phật xuất hiện ở Ấn độ mà rồi lại rời khỏi 
                      Ấn Độ để phát triển ở ngoài Ấn Độ. Điều đáng ngạc nhiên 
                      hơn nữa là đạo Phật rời khỏi Ấn Độ mà không hề gây sự va 
                      chạm đổ máu nào.  
                       
                      Thật ra tinh thần đạo Phật vốn uyển chuyển như nước, đi 
                      tới nơi nào thích nghi với tinh thần dân tộc nơi đó. Như 
                      Bloomfield, tác giả cuốn The Religion of the Veda, đă xác 
                      nhận là không có một h́nh thức tư tưởng quan trọng nào ở 
                      Ấn Độ, kể cả triết học Phật Giáo, mà không bắt nguồn từ Áo 
                      Nghĩa Thư Upanishad. Vậy đến như ra nước ngoài mà đạo Phật 
                      c̣n dễ dàng đồng hóa với tinh thần từng dân tộc, nói chi 
                      ngay tại xứ sở ḿnh! Chuyện Phật là hóa thân thứ chín của 
                      Vishnu chính là ngụ ngôn “lá rụng về cội”, giải quyết được 
                      mọi thắc mắc trên của các học giả thế giới – đặc biệt học 
                      giả Tây phương. 
                       
                      TRUYỆN ÔNG HOÀNG ĐÀO HOA KRISHNA* 
                      (hóa 
                      thân thứ tám của thần Vishnu) 
                      (*) Kể lại theo bản Anh văn : Ethel Beswick, Tales of 
                      Hindu Gods and Heroes, Jaico Book Edition, Bombay 1960. 
                       
                      Thần giáng sinh vào lúc hoàng tộc có sự bất ḥa : Kansa 
                      truất ngôi cha, hạ ngục chị là bà Devaki, cùng chồng bà là 
                      Vasu-deva. Không những chỉ hạ ngục anh chị, mà c̣n hạ lệnh 
                      giết bất cứ người con nào của chị sinh ra v́ có lời tiên 
                      tri Kansa sẽ bị giết bởi một người con của bà Devaki. 
                      Kansa đă giết tất cả sáu đứa con của Devaki. Khi bà này 
                      sắp sửa sinh hạ đứa thứ bảy th́ thần Vishnu tới cứu bằng 
                      cách lấy bào thai c̣n trong tử cung mang lại trao cho 
                      Rohini, người vợ khác của Vasu-Deva, lúc đó đương sống 
                      cùng hai vợ chồng người chăn ḅ Nanda và Yashodâ tại 
                      Gokula. Tới kỳ hạn, đứa trẻ bọc sinh ra và mang tên là 
                      Bala-Râma. (Chính là hóa thân của rắn thần Ananta mà thần 
                      Vishnu vẫn nằm nghỉ ngơi trên đó) 
                       
                      Sau đó bà Davaki lại mang thai đứa thứ tám. Vào lúc bà hạ 
                      sanh đứa trẻ này, nhă nhạc vang lừng, trên mặt đất các cây 
                      đều nở hoa tưng bừng. Đứa trẻ này chính là thần Vishnu 
                      giáng sinh lần thứ tám thành Krishna. Khi vừa sinh ra, 
                      Krishna xuất hiện trước cha mẹ với vương miện trên đầu, 
                      ḿnh mặc áo vàng, bốn tay cầm bốn vật tượng trưng là vỏ 
                      ốc, đĩa tṛn, bông sen và cái chùy. Krishna nói với cha mẹ 
                      hăy mang ḿnh tới nhà Yashodâ để đánh tráo lấy đứa con gái 
                      mà Yashodâ sắp sinh. Dứt lời, Krishna trở lại h́nh hài đứa 
                      trẻ sơ sinh. Tuy sự hiển hiện cùng lời dặn ḍ vừa qua rất 
                      đỗi kỳ lạ, Vasu-Devâ cũng quyết định tuân theo. Ông đặt 
                      đứa trẻ nằm gọn trong một cái lẵng, rồi đội lên đầu sửa 
                      soạn ra khỏi nhà tù. Những dây xích tự nhiên được tháo 
                      tung, cửa ngục mở, các lính canh ngục ngủ thiếp trong mê 
                      man và Vasu-Devâ ra đi êm thắm. 
                       
                      Trên đường đi, Vasu-Devâ phải lội qua con sông Yamunâ. Lội 
                      tới giữa ḍng, đứa trẻ bỗng trở nên nặng quá chừng, nước 
                      sông lại gần ngập tới đầu, khó mà lội qua được. Nhưng khi 
                      đứa trẻ vừa khỏa chân xuống nước, ḍng sông bỗng rút cạn, 
                      thế là hai cha con sang bờ yên lành. 
                       
                      Khi tới nhà Nanda, có tiếng vọng ra bảo Vasu-Devâ cứ vào, 
                      cứ đặt đứa con trai xuống bên cạnh Yashodâ và mang đứa trẻ 
                      gái Yashodâ mới sinh trở về ngục. Việc xảy ra thật lẹ và 
                      êm thắm. Cả Nanda và Yashodâ đều không hay biết chi cả. Từ 
                      đấy Yashodâ nuôi nấng Krishna mà vẫn tưởng là nuôi chính 
                      con ḿnh đẻ ra. 
                       
                      Nghe tin chị sinh, Kansa lại t́m cách giết đứa trẻ, lần 
                      này cô gái hiện h́nh một nữ thần bảo với Kansa rằng đứa 
                      trẻ mà Kansa muốn giết hiện đương sống ở Gokula bên kia bờ 
                      sông Yamunâ. Kansa bèn sai bầy âm binh của ḿnh đi giết 
                      hết những trẻ sơ sinh của cả vùng này. 
                       
                      Chuyện kể về thời thơ ấu của Krishna thật nhiều. Yashodâ 
                      luôn luôn lo lắng về những hành vi lạ lùng của chú bé, mới 
                      phút trước chú là chú bé thường, phút sau chú đă hiện 
                      thành đấng chí tôn của vũ trụ. Bà cũng lo lắng về việc 
                      Kansa luôn luôn t́m cách ám hại đứa trẻ. Một lần Kansa sai 
                      Pâtanâ, một con ma cà rồng, hiện thành h́nh một người đàn 
                      bà có vẻ đẹp dịu hiền tới bế đứa trẻ lên ḷng cho bú. 
                      Krishna hút hết chất độc tự vú con yêu ra, khiến nó chết 
                      tức khắc và hiện nguyên h́nh. 
                       
                      Một lần khác Yashodâ đặt chú bé chơi yên lành dưới gầm một 
                      chiếc xe ḅ lớn trong sân. Yashodâ vừa đi nơi khác, một 
                      con quỷ bộ hạ của Kansa bèn nhảy lên định làm cho chiếc xe 
                      sập xuống nhưng Krishna đă lấy ngón chân hất phăng chiếc 
                      xe nặng đập vào tường đối diện, giết chết tươi con quỷ.
                       
                       
                      Một lần khác Yashodâ đương cùng chú bé đùa th́ một đám mây 
                      đen kịt bất chợt sà xuống, túm lấy cổ chú bé rồi bay lên 
                      cao. Lần đó cơ hồ không c̣n cách ǵ cứu được chú bé, nhưng 
                      đám mây bị cưỡng bay chậm lại rồi hạ thấp dần … thấp dần 
                      xuống làng, chú bé thoát nạn.  
                       
                      Một lần Yashodâ muốn giữ cho chú bé khỏi nghịch bèn cột 
                      chú vào trục một bánh xe. Nhưng chú đâu chịu đứng nguyên 
                      một chỗ. Chú kéo lết chiếc bánh xe tới phía hai cây cổ thụ 
                      lớn mọc sát bên nhau. Chú gắng đi lọt vào giữa, chiếc bánh 
                      xe bị mắc chặn, chú vẫn kéo làm hai cây cổ thụ đổ rụp. 
                      Bỗng có hai thần linh hiện lên nói họ vốn đă bị cầm tù 
                      trong cây từ lâu, nay được Krishna phóng thích, họ xin một 
                      ḷng quy thuận và thờ phụng như bậc thầy. 
                       
                      Krishna thường hay lấy cắp bơ của các bà hàng xóm để phân 
                      phát cho khỉ và cho lũ trẻ khác, nhưng khi các bà tới mách 
                      th́ bà nào cũng ngạc nhiên nhận thấy rằng Krishna đă lấy 
                      cắp bơ ở nhà ḿnh vào cùng một lúc, c̣n bà Yashodâ lại xác 
                      nhận rằng cũng lúc ấy Krishna không hề ra khỏi nhà. 
                       
                      Một lần khác Krishna bốc đất bỏ vào miệng khi bà Yashodâ 
                      mở miệng Krishna để lấy đất ra th́ được chứng kiến h́nh 
                      ảnh toàn thể vũ trụ.  
                       
                      Khi lên sáu, lên bảy, Krishna được phép theo anh là 
                      Balâ-râma ra đồng cỏ chăn đàn súc vật. Khoảng thời gian 
                      này trong rừng Brindâban thường vang ṛn những tiếng cười 
                      của Krishna cùng lũ bạn mục đồng. Krishna rất thích thổi 
                      sáo, tiếng sáo huyền ảo đến nỗi ḍng sông Yamunâ cũng chạy 
                      lạc đường v́ mải nghe, và những bông sen khắp vùng đều 
                      bừng nở măn khai trong hân hoan. 
                       
                      Một lần có con rồng khổng lồ ẩn ḿnh rất khéo chỉ để lộ 
                      riêng chiếc miệng há rộng của nó. Lũ trẻ mục đồng ngỡ đó 
                      là cửa động bèn chạy ùa vào. Con rồng hít hơi lùa cả lũ 
                      trẻ cùng đàn súc vật vào bụng. Lũ trẻ la hét kêu cứu 
                      Krishna. Krishna bèn tới cho con rồng hít nốt ḿnh vào 
                      bụng. Nhưng khi đă vào trong, Krishna trở thành cao lớn dị 
                      thường làm vỡ bụng con rồng, lũ mục đồng và đàn súc vật 
                      được cứu thoát toàn vẹn. 
                       
                      Một ngày kia có một con hạc khổng lồ cao bằng trái núi tới 
                      đậu bên bờ sông. Krishna để cho con hạc cặp ḿnh giữa mỏ. 
                      Nhưng hạc chưa kịp nuốt th́ Krishna đă trở thành một vật 
                      nóng bỏng, con hạc muốn nhả tức khắc, nhưng Krishna vẫn 
                      bám lấy, cố làm cho đứt mỏ hạc khiến con chim khổng lồ 
                      phải răy chết. 
                       
                      Một lần khác quỷ Metrâsur hiện thành h́nh một con cừu đực, 
                      thoạt giả vờ gậm cỏ yên lành, rồi bất chợt lao hết tốc độ 
                      về Krishna. Ai cũng nghĩ rằng lần này Krishna tất phải 
                      chết, nhưng Krishna vẫn điềm nhiên đợi lúc con quỷ vừa 
                      tới, bèn vung tay nắm lấy gáy cừu quay tít mấy ṿng trên 
                      không rồi ném thẳng vào gốc cây. Metrâsur tan xác, máu 
                      thịt văng tung tóe khắp nơi.  
                       
                      Vào một ngày nóng nực, đoàn mục đồng tới hồ Kâliya uống 
                      nước. Chúng không biết nước hồ đă nhiễm độc từ lâu, v́ vậy 
                      chúng chết hết. Thấy vậy, Krishna khóc rống lên, nước mắt 
                      tiếc thương rỏ xuống và các bạn nhỏ đều hồi sinh. Krishna 
                      bèn quyết định giết con rắn độc ngụ dưới hồ. Con rắn độc 
                      Kâliya này đă phải rời bỏ chỗ ở cũ của nó v́ sợ thần điểu 
                      Garuda (do Vishnu thường cưỡi). Garuda sở dĩ không tới 
                      rừng Brindâban v́ có lời nguyền của một đạo sĩ nếu nó tới 
                      đó sẽ bị chết. V́ vậy Kâliya vẫn được sống yên lành ở hồ 
                      này. Nọc độc của nó tiết ra khiến không một loài cây cỏ 
                      nào sống nổi quanh hồ, trừ một gốc cổ thụ. Nguyên do cây 
                      này đă một lần Gurada tới đậu; v́ Garuda là thần điểu của 
                      Vishnu nên cây được nhiễm chất linh thiêng mà không bị nọc 
                      rắn làm chết. Một hôm, lũ mục đồng đương chơi banh, trái 
                      banh rớt xuống hồ. Krishna trèo lên cây, nhảy xuống hồ. 
                      Kâliya thấy nước hồ bị khuấy rộn th́ giận lắm, bèn nghển 
                      cả trăm đầu lên quan sát. Thấy chú bé, nó bèn quấn lấy kéo 
                      xuống đáy hồ, định mổ cho chết. Nhưng răng rắn vừa đụng 
                      tới thịt th́ Krishna bắt đầu lớn bồng lên; lớn đến mức 
                      Kâliya buộc ḷng phải thả chú. 
                       
                      Trong khi đó lũ mục đồng trên bờ hoảng sợ, một vài đứa 
                      chạy về báo bà Yashodâ và Nanda.Bà Yashodâ muốn liều nhảy 
                      xuống hồ cứu con, nhưng Bala-râma khuyên bà đừng lo ngại, 
                      Krishna quyết thắng trận và trở lên. Đoạn Bala-râma trèo 
                      lên cây lấy tù và ra thổi, ư báo cho Krishna biết rằng mẹ 
                      đương lo lắng. Krishna bèn thả cho ống sáo của ḿnh nổi 
                      lên mặt nước, gián tiếp báo rằng ḿnh không sao. Các bạn 
                      bè của Krishna thấy vậy càng sợ hăi v́ chúng cho rằng 
                      không bao giờ Krishna muốn rời chiếc sáo của ḿnh cả. 
                      Bala-râma lại thổi một điệu tù và khác xin Krishna chứng 
                      tỏ rằng ḿnh c̣n sống. Krishna bèn quặp lấy một đầu con 
                      rắn ngoi lên khỏi mặt nước. Đầu rắn đảo quẫy làm chiếc 
                      lông công như nhảy múa trên mặt nước khiến mọi người đều 
                      cho là Krishna bị giết đến nơi rồi. Không lâu Kâliya kiệt 
                      sức, Krishna tuần tự chém rụng những đầu của nó. Lúc 
                      Krishna sắp hạ độc thủ, chém nốt chiếc cuối cùng th́ lũ vợ 
                      con rắn sụp lạy xin chú hăy tha sống cho chồng, cho cha. 
                      Krishna ưng thuận với điều kiện rắn phải trở về chốn cũ. 
                      Kâliya đáp nếu nó về chốn cũ th́ thần điểu Garuda sẽ ăn 
                      thịt nó mất. Krishna bảo nó cứ yên chí, khi thần điểu 
                      Garuda thấy dấu chân Krishna trên đầu nó, sẽ không bao giờ 
                      t́m cách hại nó nữa. Thế là Krishna lên bờ. Lúc đó đă muộn 
                      lắm rồi, không ai kịp về nhà. Mọi người đồng ư ngủ qua đêm 
                      trong rừng. Họ tụ tập dưới một cây đa cổ thụ. Nửa đêm rừng 
                      phát hỏa, đám mục đồng thức giấc kêu cứu. Krishna ba lần 
                      mở miệng hút hết lửa, cứu được nạn cháy rừng.  
                       
                      Krishna đă lớn dần để trở thành một chàng thanh niên.  
                       
                      Một lần vào đầu vụ gió mùa, dân chúng như thường lệ sửa 
                      soạn làm lễ dâng lên thần Indra (thần Sét). Krishna nói 
                      điên ǵ mà cầu cúng thần Indra để xin cho được mùa. Mùa 
                      màng xấu hay tốt là do số phận của chính ḿnh! Thần Indra 
                      giận lắm và để chứng tỏ rằng quyền uy của thần lớn hơn 
                      Krishna, thần bèn hóa phép mưa to gió lớn, nước sông 
                      Yamunâ biến thành thác lũ tràn bờ. 
                       
                      Krishna bèn dẫn dân chúng cùng gia súc lên đường tới núi 
                      Govardhana; Krishna dùng một ngón tay nhấc bổng núi lên 
                      làm nơi trú ẩn cho cả đoàn người và vật. Suốt trong bảy 
                      ngày, ai nấy sống yên lành khô ráo. 
                       
                      Indra biết không thể thắng được, đành cho mặt trời ló 
                      rạng, ḍng sông trở lại an lành, đoàn người và vật trở về 
                      làng, núi được hạ xuống y như cũ. Indra cưỡi bạch tượng 
                      Airâvata tới ra mắt, chịu thần phục Krishna. 
                       
                      Một hôm Krishna lấy trộm tất cả quần áo của đám phụ nữ tắm 
                      dưới sông. Họ cầu khẩn xin Krishna trả lại. Krishna bắt họ 
                      từng người phải đích thân tới lấy. Đây Krishna không có ư 
                      ǵ khác hơn là dạy cho họ một bài học cao cả về tâm linh*, 
                      bù lại Krishna hứa sẽ cùng họ khiêu vũ vào một đêm trăng 
                      rằm. 
                       
                      (*) Có sách giảng : lũ ḅ tượng trưng các giác quan; các 
                      cậu mục đồng tượng trưng trí khôn; các cô mục đồng tượng 
                      trưng trí thức; đồ các cô mặc ngoài tượng trưng sự ngu 
                      dốt. Lấy cắp đồ tức là lấy đi sự ngu dốt làm sáng tỏ chân 
                      lư. 
                       
                       
                      Tới đúng kỳ trăng tṛn, tiếng sáo huyền ảo của Krishna 
                      vang tới làm những phụ nữ đó không sao ngủ được. Họ bèn kẻ 
                      trước người sau lẻn chồng, ra khỏi nhà, theo đường tới 
                      rừng. Sau một giây lâu hội họp, Krishna bảo họ phải trở về 
                      v́ họ đă được ngắm trăng đẹp bên bờ sông rồi. Cả bọn khóc 
                      lóc năo nề xin Krishna đừng sớm ruồng rẫy như vậy. Không 
                      nỡ phụ ḷng ưu ái của họ, Krishna đành đích thân san phẳng 
                      một khoảng cao màu vàng lộng ngay trên bờ sông để sửa soạn 
                      làm nơi khiêu vũ. Trong khi đó các thiếu nữ xuống tắm dưới 
                      hồ Mânasa-rovara (hồ linh thiêng), lên trang điểm cho thật 
                      đẹp, rồi các cô nhảy ṿng tṛn xung quanh Krishna như quâu 
                      ṿng tṛn một vừng trăng sáng. Khi ḷng tự kiêu của các cô 
                      lồ lộ trên nét mặt th́ Krishna biến mất, chỉ mang theo có 
                      mỹ nhân Râdhâ. Các cô khóc lóc, đi sâu vào rừng hỏi thăm 
                      chim muông, hoa cỏ xem có thấy Krishna ở đâu không. Các cô 
                      gặp lại nàng Râdhâ cũng đương khóc mếu v́ mất Krishna. Có 
                      ǵ đâu, cũng v́ nàng kiêu hănh là đă riêng được chàng mang 
                      đi, chàng bèn biến mất. Các nàng đưa nhau trở về khoảng 
                      đất cao màu vàng lộng trên bờ sông ngồi khóc nỉ non. Thấy 
                      vậy Krishna trở lại. Cuộc khiêu vũ dưới trăng lại được 
                      tiếp tục. Krishna tự phân thân thành đủ số Krishna cho mỗi 
                      cô. Họ nắm tay nhau khiêu vũ tưng bừng, trông xa như một 
                      chiếc ṿng lớn nạm vàng và ngọc bích : ánh vàng là khuôn 
                      mặt của từng Krishna, ánh ngọc bích sáng ngời là khuôn mặt 
                      của các nàng.  
                       
                      Tiếng gà báo sáng đâu đây. Trăng tà về đỉnh non Tây tự lúc 
                      nào. Tới giờ phải chia tay rồi; Krishna nói với các nàng 
                      hăy luôn luôn suy niệm về t́nh bạn cao quư này, như vậy 
                      nào có khác ǵ họ thường xuyên hiện diện bên nhau. Ai nấy 
                      vui vẻ ra về, và không một ai khác trong làng biết chuyện 
                      khiêu vũ trong đêm cả.  
                       
                      Kansa suốt mười mấy năm trời t́m đủ thiên phương bách kế 
                      mà không giết nổi Krishna đành cho mời Krishna, Nanda và 
                      toàn thể các bạn mục đồng trai của Krishna về kinh đô 
                      Mathurâ dự hội. Krishna và các bạn chàng nhận lời. Tới ven 
                      đô, mọi người dừng lại, chỉ một Krishna vào thăm trước địa 
                      điểm mở hội. Chàng tiến thẳng tới khán đài danh dự nơi 
                      Kansa sẽ ngự lăm, nơi đây có treo cây cung thần của Shiva, 
                      tượng trưng cho uy quyền ngự trị của Kansa. Tương truyền 
                      cây cung đó chưa có ai giương nổi. Krishna lẹ làng kéo dây 
                      cung, cánh cung uốn cong và găy làm đôi, tiếng vang dội 
                      làm cả kinh đô kinh hoàng. Kansa linh cảm ngày cuối cùng 
                      của ḿnh đă đến. 
                       
                      Hôm sau, Kansa tới khai mạc ngày hội chính thức. Krishna 
                      cùng anh là Bala-râma dẫn đầu đám bạn mục đồng vào. Tới 
                      cửa giác đấu trường, Kansa đă cho phục một con voi cực 
                      lớn, anh quản tượng được lệnh thúc cho voi tiến lên dày 
                      xéo cả đám đông, nhưng Krishna nắm đuôi voi kéo lùi lại 
                      nhẹ như kéo một chú bê nhỏ. Cả voi lẫn quản tượng cùng bị 
                      giết. Hai tay cầm hai chiếc ngà bự, Krishna cùng anh vào 
                      thẳng giác đấu trường, đấu vật với vô địch của nhà vua. 
                      Tên này làm sao địch nổi Krishna. Kansa uất hận, bèn hạ 
                      lệnh cho ngự lâm quân bắt giữ hai anh em, nhưng Krishna đă 
                      nhảy tới kết liễu đời tên thoán đạt phản phúc. Cha Kansa 
                      trở lại ngôi báu. Krishna cứu cha, mẹ ruột ḿnh ra khỏi 
                      nhà ngục.  
                       
                      Trong mấy năm đầu, Krishna đă giúp vương quốc này đẩy lui 
                      nhiều vụ xâm lăng và trừ khử nhiều tà quái tới quấy nhiễu. 
                       
                      Viswakarman, kiến trúc gia thần thông, đă xây một đô thị 
                      duyên hải cho Krishna, mang tên là đô thị Dwârakâ. Nhiều 
                      khi Krishna dùng phép thần thông mang cả dân chúng Mathurâ 
                      tới Dwârakâ trong một đêm, khiến sớm hôm sau khi bừng mắt 
                      dậy, họ rất đỗi ngạc nhiên thấy quanh ḿnh biển cả bao la.
                       
                       
                      Krishna cưới tới hàng ngàn vợ**, ngôi chính tất là nàng 
                      Rukmini. Tương truyền nàng Rukmini ngưỡng mộ Krishna từ 
                      thuở nhỏ, nàng vẫn hằng cầu nguyện mong được làm vợ 
                      Krishna. Lớn lên, các anh nàng muốn gả nàng cho người 
                      khác. Nàng viết thơ nói rơ nỗi ḷng ḿnh với Krishna. 
                      Krishna tới cứu nàng vào đúng lúc nàng sắp làm lễ kết hôn 
                      với người do các anh lựa chọn. Nàng được đưa về Dwârakâ. 
                      Cùng Krishna, nàng sinh hạ được người con trai tên là 
                      Pradyumna mà người ta cho chính là hóa thân của thần t́nh 
                      yêu Kâma-deva. Với bà vợ nào, Krishna cũng có được mười 
                      cậu con trai và một cô con gái.  
                       
                      (**) Thực ra đây cũng hàm ngụ ư nghĩa tượng trưng. Krishna 
                      tượng trưng cho mọi yếu tố dương ḥa hợp với mọi yếu tố âm 
                      để sinh sản và trường tồn trong trời đất. 
                       
                       
                      Một vị đạo sĩ ṭ ṃ muốn biết Krishna đă làm thế nào mà 
                      sống ḥa thuận được với hàng ngàn bà vợ như vậy, th́ rất 
                      đỗi ngạc nhiên thấy rằng bà nào cũng khoe là chính Krishna 
                      cùng ở với bà. Thành ra tất cả hàng ngàn vị phu nhân ai 
                      nấy đều sống rất hỉ hả. 
                       
                      Một hôm bà chính thất Rukmini hỏi đức ông chồng là ông 
                      trung thành với ai nhất. Krishna đáp “Râdhâ!”.  
                       
                      V́ Râdhâ là bóng đẹp xuất hiện tự tuổi thơ của Krishna, 
                      nên các vị phu nhân ở Dwârakâ chẳng ai biết mặt. Các bà 
                      yêu cầu Krishna cho được gặp Râdhâ. 
                       
                      Khi sứ giả của Krishna tới, thấy Râdhâ đương ngồi tham 
                      thiền, đôi mắt nhắm, miệng lẩm bẩm gọi tên Krishna. Nàng 
                      đẹp hiền thục như bông sen trắng nở trong đêm. Khi được 
                      cho hay Krishna muốn mời nàng tới, nàng thoạt khước từ. 
                      Sau v́ muốn làm đẹp ḷng Krishna, nàng ưng thuận. Nàng 
                      trang điểm y như ngày nào cùng Krishna khiêu vũ bên bờ 
                      sông gợn ánh trăng vàng. Tới Dwârakâ, vẻ đẹp rực ràng cao 
                      quư của nàng làm mờ nhạt hết thảy các nhan sắc khác, chẳng 
                      khác mặt trời ló rạng th́ trăng sao tất phải ch́m đi. 
                       
                      Tới lúc chia tay, nàng không muốn đi nữa, Krishna phải an 
                      ủi nàng rằng Krishna là cả thế gian, và cả thế gian ở 
                      trong Krishna, có cái ǵ ngăn cách được hai người đâu.  
                       
                      Mối t́nh chung thủy, thiết tha, cao đẹp đó cũng là tượng 
                      trưng mối t́nh của đấng Chí Tôn hướng về thế nhân, và khát 
                      vọng muôn đời của thế nhân hướng về nguyên lư tối cao 
                      Thượng Đế, Chân-Thiện-Mỹ. 
                        | 
                     
                   
                   | 
                 
               
               | 
             
           
           | 
         
       
         |