|
TUYỂN TẬP VĂN CHƯƠNG NHI ĐỒNG
- 3A
QUYỂN BA
THẦN THOẠI
DOĂN QUỐC SỸ
Sưu tập
TỔNG
LUẬN VỀ THẦN THOẠI
NGUỒN
GỐC THẦN THOẠI
Con người sở dĩ không ngừng mở rộng chân trời tri thức
chính là v́ đă biết luôn luôn nh́n vạn vật quanh ḿnh bằng
con mắt mở lớn ngạc nhiên, tra hỏi. Thần thoại là h́nh
thức văn nghệ sớm nhất của ấu thời nhân loại, thời mà óc
tưởng tượng bắt đầu bị kích thích, trí suy tưởng bắt đầu
nẩy nở, t́nh cảm bắt đầu phát triển. Vào thời này, con
người thấy ḿnh sống ngợp giữa những huyền bí của vũ trụ:
cái ǵ làm các v́ tinh tú vận chuyển trên trời, cái ǵ làm
bốn mùa đổi thay cùng với mưa nắng, gió băo, sấm sét ? …
Và con người bập bẹ giải thích, tin tưởng vạn vật đều có
linh hồn. Dĩ chí những dụng cụ do chính họ tạo tác cũng có
linh hồn và đời sống riêng tư (tỉ như con chó đá chôn ở
trước cửa). Thật là thú vị khi chúng ta thấy rằng sau khi
sáng tạo ra các vị thần đầy đủ cả về h́nh thức lẫn quyền
uy rồi con người sinh ḷng sùng bái những linh phẩm do
chính ḿnh tạo tác đó, uỷ cho nào những nhiệm vụ khuyến
thiện trừng gian an bài xă hội … Tóm lại thần linh mang
h́nh ảnh của con người, phản ảnh nếp sống cùng nguyện vọng
của con người.
SỰ TIẾN TRIỂN CỦA THẦN THOẠI – PHÂN BIỆT THẦN THOẠI VỚI
TRUYỀN THUYẾT *
Thần thoại không chỉ ngừng lại ở chỗ cắt nghĩa vũ trụ muôn
vật, cắt nghĩa nguồn gốc của giống ṇi ḿnh, mà vào giai
đoạn chót của sự tiến triển c̣n là cách thức nhân hoá các
vị thần và thần hoá các vị anh hùng dũng sĩ trong lịch sử.
Chỉ riêng ở Hy Lạp, thần thoại tách rời với lịch sử thành
hai ḍng riêng biệt, c̣n hầu hết thần thoại của các dân
tộc trên thế giới đều pha lẫn với lịch sử buổi đầu. Tuy
nhiên căn cứ vào bản chất, chúng ta vẫn có thể phân biệt
được đâu là thần thoại, đâu là truyền thuyết. Thần thoại
là một h́nh thức của truyền thuyết, song những nhân vật
đều là thần và thời gian trong câu truyện hoàn toàn do
tưởng tượng mà ra, c̣n truyền thuyết kể những sự việc cùng
nhân vật có dính líu tới lịch sử tục truyền. Truyền thuyết
có khi là thần thoại được sửa lại thành phần lịch sử hoang
đường để phân biệt với phần lịch sử thật sự.
(*)
Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư I, Thần Thoại,
Quốc Hoa, Saigon 1959, chương “Nguồn Gốc”.
SỰ
GIAO LƯU CỦA THẦN THOẠI GIỮA CÁC NƯỚC*
Thần thoại cũng như cổ tích của các dân tộc chịu ảnh hưởng
lẫn nhau. Khi gặp gỡ nhau tại các ngă như vậy, chủ đề thần
thoại vẫn y nguyên, song t́nh tiết có thể thêm bớt cho
thích hợp với những quan niệm, những cảm nghĩ mộc mạc cá
biệt của mỗi dân tộc, thích hợp với triết lư đặc thù của
mỗi dân tộc do hoàn cảnh địa lư, lịch sử tiến triển trong
thời gian, không gian tạo thành.
Người ta nhận thấy nạn Hồng Thuỷ kể trong Kinh Thánh Hy Bá
Lai cũng có ở trong thần thoại của các sắc dân trên dăy
Trường Sơn và thượng du Bắc Việt. Nhiều khi hai dân tộc ở
xa nhau hẳn mà trong thần thoại lại có nhiều truyện giống
nhau. Các nhà tôn giáo căn cứ vào đó để đưa ra thuyết nói
rằng nhân loại vốn cùng một gốc do Thượng Đế sinh ra, các
nhà nghiên cứu khoa học thần thoại th́ nói rằng đó là do
ảnh hưởng giao lưu văn hoá giữa các dân tộc.
Ấn Độ là xứ ghi dấu vết đầu tiên về thần thoại chữ viết
trên thế giới. Những thần thoại được chép trong kinh Phệ
Đà của Ấn Độ có từ khoảng 4.500 năm trước công nguyên. V́
vậy thần thoại Ấn Độ thường được coi là nguồn gốc chung
của thần thoại các dân tộc trên thế giới.
TÁC
DỤNG CỦA THẦN THOẠI
- Ư nghĩa khoa học, tôn giáo, đạo đức :
Mặc dầu thần thoại nhuộm tính chất hoang đường song không
bao giờ là không bắt nguồn tự những khát vọng, tự những
t́nh cảm có thực. Bởi vậy, như trên đă nói, nếu đem đối
chiếu với những sự kiện lịch sử, địa lư, nhân chủng, ngôn
ngữ, chúng ta có thể thấy những h́nh thái tượng trưng của
thần thoại nói trên phần nào tài liệu về nguồn gốc, tín
ngưỡng, triết lư của mỗi dân tộc.
- Thần thoại với thi ca, nghệ thuật
“Những h́nh ảnh đầu tiên trong hang đá của tổ tiên loài
người là những phát hoạ các thần tượng bắt đầu tạo thành
trong ư thức con người. Rồi về sau, người ta mới biểu hiện
hoàn mỹ hơn thành những h́nh ảnh thần thánh của các dân
tộc. Thần thoại Hy Lạp đă phát sinh ra nghệ thuật Hy Lạp.
Nghệ thuật điêu khắc Chiêm Thành, Khmer, cũng bắt nguồn từ
thần thoại của họ. Nền văn nghệ Phục Hưng của Tây Phương
được rực rỡ là nhờ ở hai nguồn thần thoại Hy Bá Lai và
thần thoại Hy Lạp. Những chạm trổ Việt Nam cũng do ảnh
hưởng xâu xa trong thần thoại dân tộc.
Thần thoại là nguồn gốc tươi thắm của nền nhân bản thực
sự. Thần thoại là sử thi, tiểu thuyết lịch sử, ngụ ngôn
của mỗi dân tộc” **
- Thần thoại với các em thiếu nhi:
Như chúng ta đă biết, thần thoại là cái nh́n của con người
cổ sơ thần hoá một cách chất phác hiện tượng thiên nhiên.
Có thể nói các em thảnh thơi đi vào thế giới thần thoại
thật đắc ư như cá gặp nước, như mây gặp rồng. Các em vốn
đương ở tuổi trí tưởng tượng nở rộng như mây gió, nh́n vào
cái ǵ cũng thấy sống động. Thế giới đồ chơi của các em
(búp bê, bàn, ghế, giường, tủ …) có cả một đời sống riêng
tư mà các em hàng ngày tham dự. Như vậy hỏi làm chi mà các
em chẳng dễ dàng thích ứng với thế giới thần linh của buổi
ban đầu nhân loại?
(*) Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư I, Thần
Thoại, Quốc Hoa, Saigon 1959, chương “Nguồn Gốc”.
(**)Hoàng Trọng Miên, sđd tr. 45
LỜI
CẢM TẠ
Khởi
đầu là thần thoại Ấn Độ, thần thoại lâu đời nhất của nhân
loại. Chúng tôi chân thành cảm tạ giáo sư Lê Xuân Khoa đă
cho phép chúng tôi tham khảo, và đúc kết những điều giáo
sư viết về lịch sử, tôn giáo, thần thoại, triết học Ấn Độ
trong tác phẩm Nhập Môn Triết Học Ấn Độ của giáo sư (Bộ
Quốc Gia Giáo Dục xuất bản, 1965). V́ đây là một “Tuyển
tập Văn Chương Nhi Đồng” nên phần kể chuyện ở trên, chúng
tôi cố gắng giữ cho đơn giản, nhưng phần chú thích, phần
bổ túc để người lớn đọc, chúng tôi cố gắng ghi chú cho đầy
đủ nhiều chừng nào hay chừng ấy.
THẦN
THOẠI ẤN ĐỘ
V́ thần thoại Ấn Độ liên lạc mật thiết tới lịch sử Ấn,
thánh kinh Vê Đa cùng nền triết lư ẩn ngụ trong đó, nên
hăy xin tuần tự giới thiệu ngắn gọn những vấn đề trên
trước khi đi vào thần thoại Ấn Độ thật sự.
LỊCH SỬ ẤN ĐỘ
Những niên đại đáng ghi:
Thời Tiền Sử (cũng có thể gọi là tiền Vê Đa)
2700-1700 : Văn minh lưu vực sông Indus.
1500-1200 : Dân Aryan xâm nhập Ấn Độ.
Thời Vê Đa
1200-900 : Kinh Rig-Veda
900 - : Trận chiến tranh mô tả trong Mahâbhârata.
900-500 : Các Kinh Vê Đa khác, Brâhmana và khởi đầu
Upanishad.
Nhờ công cuộc khai quật của các nhà khảo cổ trong khoảng
nửa thế kỷ nay ở hai miền Mohenjodaro và Harappa (Tây Bắc
Ấn Độ), người ta đă khám phá ra những di tích của một nền
văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ, mệnh danh là văn minh lưu
vực sông Indus, phỏng định khoảng 2700-1700, tức là trước
thời kỳ dân Aryan xâm nhập Ấn Độ và tạo lập nền văn hoá Vê
Đa. Người ta tin chắc rằng trước khi dân Aryan du nhập đất
Ấn, người Dravidien đă cư ngụ ở khắp miền Tây Bắc Ấn Độ.
Do đó, những đặc tính văn minh Dravidien với nền văn minh
ở lưu vực sông Indus có thể chỉ là một. Người ta nhận thấy
trong các kinh Rig Veda và Atharva Veda, ư thức tôn giáo
của dân Aryan đến chiếm đóng đă được hoà hợp cùng với quan
niệm tín ngưỡng của người bản xứ, các vị thần linh của
người bản xứ đă được bổ túc bằng những vị Thần Mặt Trời,
Thần Lửa, Thần Gió do người Aryan thờ phụng. Những yếu tố
tiền Veda (pre-Vedic) có thể gọi chung là những yếu tố văn
hoá phi Veda (non-Vedic).
THÁNH
KINH VEDA
Veda (do tự căn Vid) có nghĩa là Biết, cái Biết tuyệt đối
và toàn diện. Veda có lẽ cùng một ngữ nguyên với những
tiếng Video (Latin), Weise (Đức) và Wit hay Wisdom (Anh).
Dù nặng về tôn giáo và nhẹ về triết lư, Veda vẫn phải được
coi là khởi nguyên của tất cả mọi hệ thống tư tưởng và
h́nh thức tôn giáo chính thống của Ấn Độ.
Về phương tiện thiêng liêng hay thần học, Veda được người
Ấn Độ tin tưởng là những chân lư do Thượng đế mặc khải cho
loài người. Những chân lư ấy tự nó vẫn tồn tại như những
định luật, trước tất cả mọi vật, trước mọi sự hiểu biết.
Sau mỗi lần vũ trụ bị hủy diệt toàn diện chỉ có Thượng Đế
là tồn tại. Khi Ngài muốn cấu tạo vũ trụ mới, Ngài tạo ra
Brahmâ (Phạm Thiên, đấng sáng tạo ra vũ trụ), rồi Ngài
thông tri cho Brahmâ những chân lư Veda. Bấy giờ Brahmâ
mới bắt đầu thực hiện công cuộc sáng tạo theo đúng với
chân lư Veda. Lâu lâu, Brahmâ lại tạo ra những bậc đạo sĩ
thấu thị (drishtâra hay rishi) có khả năng tiếp thụ những
lời mật chú (mantra). Đó là công việc mặc khải chân lư
Veda. Các học giả đă đưa ra nhiều giả thuyết rất khác nhau
về thời gian san định kinh Veda. Khuynh hướng chung ngày
nay có vẻ ấn định thời gian san định đó vào khoảng 1500-
1000 trước T.C.
Có tất cả bốn bộ Veda: Rig Veda (Độc tụng Phệ Đà), Sama
Veda (Ca vịnh Phệ đà), Yajur Veda (Tế tự Phệ đà) và
Atharva Veda (Nhương tai Phệ đà; Nhương tai có nghĩa là
cầu đảo cho khỏi tai hoạ). Trong tứ Veda, riêng bộ Rig
Veda là lâu đời nhất và quan trọng nhất.
Mỗi bộ Veda thường được chia làm ba phần : Matras gồm
những bản thánh ca và thần chú. Brahmanâ viết bằng văn
xuôi, nói về những nghi thức tế tự, và Upanishad tức là
phần triết lư giải thích ư nghĩa bí hiểm và sâu sắc của
Veda, thường được dịch là Áo Nghĩa Thư.
TÔN GIÁO ẤN ĐỘ QUA THÁNH KINH VEDA
Về h́nh thức, tôn giáo Veda là một đa thần giáo, nhưng về
bản chất tôn giáo Veda là một nhất thần giáo. Theo tôn
giáo Veda, tất cả các thần linh chỉ là những biểu hiện
khác nhau của cùng một thực tại, tức là Brahman hay
Ishvara (Thượng Đế). Người ta có thể nhận biết Ngài qua ba
ngôi chủ động : đấng Sáng Tạo (Brahmâ), đấng Bảo Hộ
(Vishnu), và đấng Huỷ Diệt (Shiva). Tuy ba mà vẫn quy về
một mối, chẳng phải chỉ đồng nhất trong bản thể và nguồn
gốc mà c̣n trong cả hành động nữa. V́ thế mà trong nhiều
ngôi đền Ấn độ giáo, người ta thấy h́nh ảnh Tam linh vị đă
được thể hiện bằng một cái đầu có ba bộ mặt.
Một thi sĩ xưa đă diễn tả vai tṛ hợp nhất của Ba Ngôi
trong mấy vần thơ sau:
Thượng Đế duy nhất biểu hiện trong cả ba ngôi
Đấng nào cũng đứng đầu, Đấng nào cũng đứng chót.
Không một đấng nào tách ra riêng biệt
Brahmâ, Vishnu, Shiva; mỗi Đấng đều có thể là :
Thứ nhất, thứ nh́, thứ ba trong ngôi chí thánh.
TRIẾT
HỌC ẤN ĐỘ
Triết học Ấn Độ, vốn liên hệ chặt chẽ với tôn giáo, nên
chân lư Ấn Độ cũng có tính cách đa diện, đa phương đưa đến
thái độ sử thế tiếp vật hoà nhi bất đồng. Các hệ thống
triết học chỉ là những lối nh́n khác nhau, những cách mô
tả các khía cạnh khác nhau của cùng một chân lư. Thêm một
điều cần nhớ là triết học Ấn Độ kể từ khởi thuỷ tới nay
luôn luôn nhằm mục đích thực nghiệm tâm linh, tức là thực
hiện ở ngay tại nội tâm cái bản tính đại đồng hợp nhất cá
nhân với vũ trụ, Tiểu ngă (Âtman) với Đại ngă (Brahman).
Đi vào nhân sinh quan, triết học Ấn Độ cũng đề cập đến một
kế hoạch sống có tính cách toàn diện gồm bốn mục đích của
đời sống: Dharma (đạo đức), Artha (tài sản), Kâma (lạc
thú) và Moksha (giải thoát). Bốn mục đích nầy phải được
tuần tự thực hiện theo bốn giai đoạn cần thiết cho đời
sống. Chương tŕnh giáo dục thiếu niên trong giai đoạn đầu
dựa trên một nền tảng chung là thánh kinh Veda. Sang giai
đoạn thứ nh́, kẻ trưởng thành bắt đầu xây dựng cuộc đời
của ḿnh bằng việc thành lập gia đ́nh, sử dụng tài năng và
nghề nghiệp của ḿnh để tạo lập giàu sang, hưởng thụ mọi
thú vui trần thế. Trong thời kỳ này, con người sống cuộc
đời trần thế toàn diện, thực hiện ba mục đích đầu tiên là
tài sản, lạc thú và đạo đức, gọi chung là Tam Hiệp
(Trivarga).
Khi nhận thấy ḿnh da đă nhăn, đầu điểm bạc, và khi đă
thấy đứa cháu nội ra đời, đó là bắt đầu giai đoạn thứ ba
rút vào rừng, rũ bỏ hết mọi ràng buộc đối với đời sống
trần gian để trở về đời sống nội tâm, t́m ṭi thực hiện
cái bản ngă chân thực và vĩnh cửu, dọn ḿnh cho cuộc đời
giải thoát ở giai đoạn cuối cùng.
Có sống cuộc đời nhập thế mới có đủ lư do để khao khát
cuộc đời xuất thế. Phải thực nghiệm đời sống trần tục mới
hiểu thấu được thế nào là đau khổ, là vô thường, ngay cả
đối với những cái gọi là lạc thú trên đời. Vả lại, nhập
thế không phải chỉ có nghĩa là hưởng thụ, con người c̣n
phải thi hành bổn phận đối với gia đ́nh và xă hội. Kế
hoạch sống toàn diện theo quan niệm truyền thống Ấn Độ là
như thế.
Quan niệm về luân hồi của người Ấn Độ do hoàn cảnh địa lư
đặc biệt gây ra. Thời tiết luân chuyển: mùa xuân gây mầm
sống, mùa hè nung nấu, thu chuyển sang đông gió lạnh thấu
xương, các mùa vận hành theo một chu kỳ bất tận vô thuỷ vô
chung giữa sáng tạo và huỷ diệt. Ư niệm luân hồi phối hợp
với thuyết nghiệp báo để chứng tỏ quá tŕnh vận hành có
trật tự của linh hồn. Nhân nào quả ấy, thiện báo thiện, ác
báo ác. Thuyết này dạy ta phải can đảm chịu đựng tất cả
mọi điều ǵ sẩy đến cho ta ở cuộc sống hiện tại v́ chúng
chỉ là kết quả của những việc ta làm tự kiếp trước. Tuy
nhiên, tương lai là tuỳ thuộc nơi ta. Người ta là một sản
phẩm của ư chí, cái vô hạn ở con người giúp hắn vượt lên
trên những ràng buộc của hữu hạn, đạt được tự do tối cao,
“hợp nhất với Thượng đế”, thoát ra khỏi ṿng nghiệp chướng
của thế giới giác quan và dục vọng. Đó là thực hiện được
sự hợp nhất tâm linh đại đồng vũ trụ, cứu cánh của đời
người.
BẢNG
GHI CHÚ VỀ CÁCH PHÁT ÂM TIẾNG PHẠN
Sau đây chỉ xin ghi cách đọc những âm chính :
Nguyên âm
A, i, u đọc như tiếng Việt nhưng ngắn gọn hơn.
Aâ, ĩ , uâ cũng đọc như trên nhưng kéo dài (â = aa)
E đọc như ê.
O đọc như ô.
Au đọc như ao.
Phụ âm
Bh, dh, gh, đọc như bờ hờ, đờ hờ, gờ hờ nhưng rất nhanh
Ch đọc như tch phiên âm quốc tế
G đọc như gh (gĩta = ghita)
J đọc dj
Sh đọc như là s uốn giọng mạnh.
Sau khi đă trang bị một số tối thiểu hành trang, giờ đây
chúng ta bắt đầu đi vào thần thoại Ấn Độ.
KHỞI NGUYÊN CỦA VŨ TRỤ TRONG THÁNH CA
(Rig-Veda X,129)
Thuở ấy không có Hữu thể mà cũng không có Phi thể, chẳng
có không gian chứa đầy khí trời mà cũng chẳng có tầng trời
nào ở bên kia khoảng không ấy. Cái ǵ bao trùm hết thảy?
Do ai bảo hộ? Phải chăng là trùng dương thăm thẳm khôn ḍ?
Thuở ấy không có chết mà cũng không bất tử, không có ǵ
phân biệt ngày đêm. Đấng Một ấy hô hấp bằng nội lực, không
hề tạo thành hơi thở. Tuyệt nhiên không có cái ǵ hiện hữu
ở ngoài Ấy và khác với Ấy *.
(*)
Có nghĩa là ngoài Tự Ngă ra không c̣n ẩn hiện cái ǵ khác.
Lúc khởi thuỷ, chỉ có bóng tối mịt mù trong bóng tối, toàn
thể vũ trụ là nước mênh mông. Khi ấy, do sức mạnh của
nhiệt tính (tapas), Đấng Một phát sinh giữa hư không.
Trước tiên, tự nơi ấy phát hiện ra dục tính tức là mầm
mống tối sơ của tinh thần. Các thi nhân, đạo sĩ quan sát
nội tâm và dùng minh trí khám phá được mối liên hệ của Hữu
thể trong Phi thể.
Các thần linh ra đời sau sự sáng tạo thế gian này, vậy ai
biết do đâu mà có sáng tạo ?
Sự sáng tạo này do đâu mà có ? Có hay không có sáng tạo?
Chỉ có Đấng Cai Quản thế gian này ở trên tầng trời cao
nhất là có thể biết được. Mà có khi chính Ngài cũng không
biết nữa.
CHÚ
THÍCH:
Đại ư bài này nói khởi thuỷ không phân biệt Hữu và Vo.â
Thực tại tuyệt đối là một cái ǵ ở ngoài mọi giới hạn của
thời không, sinh tử và ư niệm. Tuyệt Đối tự ư thức lấy
ḿnh và cái động lực phát hiện ư thức đầu tiên ấy là
Tapas, bản tính nồng nhiệt của Tuyệt đối. Nhờ Tapas, ngôi
thứ nhất là “Ta” phát hiện. Từ đó, bắt đầu có sự phân biệt
giữa Hữu và Vô, giữa Ta và Không ta, giữa Tâm và Vật, giữa
Thần ngă sáng tạo (Purusha) và vũ trụ hiện tượng
(Prakriti) …
Bản thánh ca kết luận là có một Đấng Cai Quản Tối Cao,
nhưng không biết Ngài có phải là Đấng Sáng Tạo hay không?
Chỉ có một ḿnh Ngài biết, mà có khi chính Ngài cũng không
biết nữa. Ai biết? Đó là bí nhiệm của sự sáng tạo !
Hăy so sánh với Kinh Cựu ước, Sáng thế thư : Ban đầu Đức
Chúa Trời dựng nên trời đất. Bóng tối bao trùm Vực thẳm,
và Tinh thần Đức Chúa Trời chuyển dịch trên mặt nước mênh
mông. Ngày đầu tiên Đức Chúa Trời phán phải có sự sáng và
do đó phân chia ra ngày đêm; ngày thứ hai Đức Chúa Trời
phân cách ra khoảng không trên trời; ngày thứ ba Đức Chúa
Trời phân ra miền đất cao thảo mộc phồn thịnh và miền nước
tụ là biển; ngày thứ tư Đức Chúa Trời làm ra mặt trời, mặt
trăng, các v́ tinh tú, v́ vậy mà phân chia được ra ngày,
tháng, năm và thời tiết; ngày thứ năm Đức Chúa Trời dựng
nên các loại chim trời, cá biển; ngày thứ sáu Đức Chúa
Trời dựng nên các loài động vật; rồi loài người một nam,
một nữ để quản trị cá biển cùng là muông, thú. Sang ngày
thứ bảy Đức Chúa Trời ban phép lành đặt tên là ngày thánh
: ngày đó Ngài nghỉ v́ đă làm xong mọi công việc.
THƯỢNG ĐẾ – BA NGÔI – VÀ CÁC THẦN LINH
Thượng Đế duy nhất tự hữu hằng cửu là nguyên nhân và cứu
cánh của toàn thể các thần linh và muôn loài trong vũ trụ.
Theo quan niệm của Ấn Độ, con người không thể h́nh dung
Thượng Đế bằng bất cứ một ư niệm hay h́nh ảnh cụ thể nào.
Con người chỉ có thể nhận biết được Thượng Đế qua những vị
thần linh biểu hiện cho quyền năng mầu nhiệm của Ngài.
Cơi Trời (Dyaus), Đất (Aditi), và Mười Hai Nguyên Lư Tối
Cao (Âditya) tức Mười Hai Tháng:
H́nh ảnh tiếp cận nhất có thể biểu hiện cho Thượng Đế toàn
diện là Cơi Trời (Dyaus) chứa đựng toàn thể vũ trụ.
Cùng với Cơi Trời (Dyaus) là Cha tượng trưng cho Tinh
thần, có Đất (Aditi) là Mẹ tượng trưng cho Vật chất. Do
hai nguyên lư này mà sinh ra Mười Hai Nguyên Lư Tối Cao
(Âditya) điều hành mọi sinh hoạt giữa Trời và Đất, cai
quản chư thần và loài người. (Nói vậy v́ mười hai tháng
trong năm khi chuyển vận lôi cuốn theo tất cả thế gian)*.
(*) Bộ ba Dyaus-Aditi-Âditya (Cha-Mẹ-Con) với tính cách
nhất nguyên, có thể ví như quan niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi
Cha-Con-Thánh-thần trong Thiên Chúa Giáo. Lại cũng có thể
ví như quan niệm trong Kinh Dịch về Âm, Dương và các h́nh
thái biểu hiện do sự giao hoà của hai nguyên lư ấy.
Các thần linh trong Veda ngụ khắp ba cơi : Thần cai quản
Hạ giới là Lửa (Agni); thần cai quản Không trung la` Gió
(Vâyu) và thần cai quản Thiên giới là Mặt trời (Suârya).
Đó là Ba ngôi tối linh Tri-murti trong Veda.
CHÚ
THÍCH:
Về nguyên lư ba ngôi là Dyaus-Aditi-Âditya; về thể hiện
th́ Tam linh vị là Thần lửa Agni, Thần gió Vâyu và Thần
mặt trời Suârya. V́ vậy, Đất và Lửa là một, Bầu Trời và
Không Khí là một, Cơi Trời và Mặt Trời là một. Cả ba vừa
là Thể vừa là Dụng của cùng một bản chất và là ba yếu tố
căn bản của đời sống. Sau đây Ba Ngôi tối linh c̣n là :
Thần Sáng Tạo Brahmâ, Thần Bảo Tồn Vishnu và Thần Huỷ Diệt
Shiva.
Lại c̣n có nhiều quan niệm khác về Ba Ngôi, tỉ như quan
niệm về ba phẩm tính trong thiên anh hùng ca Mahâbhârata
(sẽ đọc sau đây) là : Thuần khiết hay Tri thức (Sattva) có
tác dụng Quy tâm, T́nh cảm hay Hành Động (Rajas) có tác
dụng điều hoà; và Ô trọc hay Ngu tối (Tamas) có tác dụng
ly tán; hoặc quan niệm phái Vedânta về Thực hữu (Sat), Trí
thức (Chit) và An lạc (Ananda).
THẦN
LỬA AGNI
Thần lửa Agni được coi là bản chất chung của ba ngôi. Lửa
thể hiện dưới nhiều h́nh thức nhưng chỉ có riêng ngọn lửa
thiêng trong cuộc tế lễ, do sự cọ sát hai mảnh gỗ tạo nên
mới được coi là sự hiện diện đích thực của Agni. Ở hạ
giới, Thần lửa Agni được giữ sứ mạng làm trung gian giữa
loài người với các thần linh, chuyển đạt lên chư thần
những lễ vật do loài người dâng cúng.
Thần Lửa Agni c̣n được mệnh danh là Đấng thấm nhập khắp
nơi (Vaishvânara). Ngay trong cơ thể sinh vật, lửa là khả
năng hấp thụ và tiêu hoá, động cơ của sự sống. Bản tính
của lửa là soi sáng cả ngoại giới lẫn nội giới. Hiểu được
bản tính của Lửa là hiểu được bản tính của toàn thể vũ
trụ.
Về h́nh tượng, Thần Lửa Agni ḿnh đỏ và vàng, có hai đầu,
bảy lưỡi, và bốn tay cầm một chiếc ŕu, một ngọn đuốc, một
cây quạt và một chuỗi hạt. Thần Lửa Agni thường cưỡi một
con cừu đực, hoặc ngồi trên xe có bảy con ngựa kéo. Khói
là cờ, gió là bánh xe, Agni đi đến đâu là hoả thiêu tới
đó, hung hăn như mănh hổ giữa đàn cừu, như thác lũ đổ
xuống đồng bằng. Tuy vậy, Thần Lửa Agni vẫn là thần bảo hộ
của loài người, là vị chủ tế (hotri) trong các buổi lễ,
ban phát ánh sáng và hơi ấm cho nhân loại.
CHÚ THÍCH
Lửa thể hiện dưới nhiều h́nh thức. Có mười h́nh thức
chính; năm h́nh thức tự nhiên và năm h́nh thức tế tự.
Năm ngọn lửa tự nhiên là : Agni (Lửa trần gian), Indra
(Sét ở không gian), Suârya (Mặt trời ở Thiên giới),
Vaishvânara (Nhuận thắp) và Vâdevagani (Lửa phá hoại).
Năm ngọn lửa tế tự là : Brahma-agni, lửa thiêng trong buổi
lễ; Prâjâpatya-agni là lửa trao cho thiếu niên tu học
(brahmacharya) khi làm lễ khai hoá (upanuyana);
Gârhapatya-agni là lửa trong gia đ́nh không bao giờ được
để tắt; Dakshine-agni là lửa dùng trong khi cúng tổ tiên
hoặc các vong hồn; và sau hết là Kravyada-agni tức là ngọn
lửa thiêng trên giàn hoả táng.
THẦN
GIÓ VÂYU
Thần Gió Vâyu được coi là hơi thở của Lửa, có nhiệm vụ
thánh tẩy và cùng với Lửa chuyển lễ vật lên các thần linh.
Về h́nh tượng, Vâyu là một vị thần ḿnh trắng, dũng mănh,
cưỡi con linh dương, mang theo cung và tên. Tất cả các món
trang phục khác của Vâyu đều màu trắng cả.
Đôi khi Vâyu cùng Indra (Thần Sét) ngự trên chiếc xe bằng
vàng có một ngàn con ngựa kéo và có thể chạy thẳng đến
trời.
Dũng sĩ Bhĩma trong thiên anh hùng ca Mahâbhârata và Thần
Khỉ Hanuman trong thiên anh hùng ca Râmayâna đều là con
của Vâyu và đều có tài đi nhanh như gió cuốn.
Xưa có một hôm đạo sĩ Nâranda thỉnh cầu Vâyu thổi găy đỉnh
núi Meru. Vâyu thổi một trận cuồng phong kéo dài suốt một
năm mà không có kết quả v́ thần điểu Garuda (do thần
Vishnu thường cưỡi) đă xoè cánh che ngọn núi và cản sức
mạnh của cuồng phong. Đạo sĩ Nâranda bèn đề nghị với Thần
Vâyu chờ khi nào Garuda đi vắng hăy tấn công. Quả nhiên cơ
hội này đến và Vâyu thổi bay chóp núi Meru ra tận ngoài
biển, biến thành ḥn đảo Lankâ tức là xứ Ceylon (Tích Lan)
bây giờ.
CHÚ
THÍCH:
Vâyu do tự căn Vâ có nghĩa là thổi. Trong kinh Upanishad
(Áo Nghĩa Thư), Vâyu được mô tả là sinh khí của vũ trụ, là
mạch sống của muôn loài, là bản chất, uyên nguyên của
Thượng Ngôn (Vâc) cũng như Ngôi Lời (Verbe) trong Sáng thế
thư.
Vâyu cũng có nghĩa là “thấm nhập, tràn lan”. Sách
Brihad-devatâ ghi : “Ngài ngự trong không gian, thấm nhập
và tràn đầy ba cơi. Các bậc tiên tri tôn thờ và gọi Ngài
là Vâyu”.
THẦN
MẶT TRỜI SUÂRYA
Thần Mặt Trời Suârya* là nguồn sáng của vũ trụ , là nguồn
minh trí của tất cả các sinh vật biểu thị bởi mười hai
nguyên lư tối cao (Âditya), là cửa mở vào con đường đưa
tới thần linh, là nguyên nhân và cứu cánh của tất cả những
ǵ hiện hữu trong quá khứ, hiện tại và vị lai, tất cả
những ǵ sinh động và bất động.
(*)Suârya do tự căn Sur hay Svar nghĩa là sáng chói
Về h́nh tượng, Suârya là một vị thần ḿnh màu đồng đỏ, tóc
và râu màu vàng, ngự trên một chiếc xe một bánh do bảy
ngựa kéo, đôi khi do Rồng (Naga) kéo. Suârya đội vương
miện và đeo ṿng, tất cả đều toả hào quang chói lọi khắp
mọi phương trời.
Thần Mặt Trời Suârya có bốn vợ: Samjnâ (Trí thức)**, Rajni
(Hoàng hậu), Prabhâ (Ánh sáng) và Châyâ (Bóng Tối). Suârya
có nhiều con, trong số có Yama (Tử thần).
(**) C̣n có tên là Saranyuâ (Mây)
Tương truyền rằng Samjnâ không thể chịu nổi sức nóng của
chồng lâu được, nên phải trốn vào rừng đi tu, nhờ các
thiên thần tạo ra nàng Châyâ có dung mạo giống hệt ḿnh để
đánh lừa Suârya. Khi khám phá ra sự thật, Suârya đi kiếm.
Samjnâ bèn biến thành con ngựa cái. Suârya cũng lập tức
biến thành con ngựa đực để theo vợ. V́ thế mà Samjnâ sinh
ra một cặp sinh đôi, ḿnh người đầu ngựa, tức là hai thần
Ashivins, thần của nhà nông và cũng là thần y chữa bệnh
cho chư Thần. Sau đó Suârya dẫn vợ về nhà.
Cha vợ là Tvashtri (Hoá công) muốn cho con gái khỏi bị đau
đớn v́ sức nóng, bèn xén bớt một ít tia sáng của Suârya.
Những mảnh này được tạo thành cái đĩa của Thần Bảo Tồn
Vishnu, cái chĩa ba của Thần Huỷ Diệt Shiva, cái chuỳ của
Thần Tài Sản Kubera, cùng là khí giới của nhiều thần linh
khác nữa.
MẤY
LỜI GHI CHÚ:
Thoạt kỳ thuỷ ba ngôi trong thần thoại Ấn Độ là vậy : Cơi
Trời – Mặt Trời; Không Trung – Gió; Đất – Lửa. Về sau quan
niệm Ấn Độ chú trọng vào phương diện hành động. Theo quan
niệm mới này, bất cứ một hành động nào, kể cả hành động
của Thượng Đế cũng biểu thị cho một trong ba khuynh hướng
tất yếu và căn bản : Sáng Tạo, Bảo Tồn và Huỷ Diệt. Do đó
suy lên đến hành động khởi nguyên của Thượng Đế, người ta
có thể nhận biết Ngài qua Ba Ngôi chủ động : Đấng Sáng
Tạo, Đấng Bảo Hộ và Đấng Hủy Diệt (Brahmâ, Vishnu và
Shiva). Ta luôn luôn phải nắm vững đường lối suy tư truyền
thống của Ấn Độ mà nhớ rằng ba khuynh hướng trên bất khả
phân và có liên hệ nhân quả với nhau. Tuy ba mà một, tuy
một mà ba. Sáng tạo để bảo tồn rồi huỷ diệt; hủy diệt để
sáng tạo rồi bảo tồn; bảo tồn để huỷ diệt rồi sáng tạo. Cứ
thế tiếp diễn theo một chu kỳ bất tận. Bây giờ chúng ta
bắt đầu đi và thần thoại Ba Ngôi Tối Linh dưới diện mạo
mới. Thoạt cần phải biết thế nào là Kalpa
KALPA
Kalpa là một kiếp của vũ trụ, lâu bằng một ngày của Brahmâ
(Thần Sáng Tạo), tính ra là 4.320.000.000 năm. Mỗi Kalpa
gồm có 1.000 đại kỷ nguyên (Mâhâ-yuga). Mỗi đại kỷ nguyên
gồm có 4 thời đại kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định:
1. Kritayuga tức là thời hoàng kim, lâu 1.728.000 năm,
trong đó nhân loại sống trong hạnh phúc tuyệt đối, mầm ác
chưa xuất hiện.
2. Tretâyuga tức Bạch ngân thời đại, lâu 1.296.000 năm,
trong đó mầm ác bắt đầu xuất hiện, gây nên những chuyện
bất hoà trong nhân loại.
3. Dvâpara-yuga tức lưỡng tính thời đại, lâu 864.000 năm,
trong đó tính ác đă phát triển ngang sức với tính thiện,
mâu thuẫn và xung đột mỗi ngày một nhiều.
4. Kati-yuga tức Hôn ám thời đại, lâu 432.000 năm, trong
đó tính ác tràn ngập, tính thiện mất dần, nhân loại sống
trong hỗn loạn đau khổ.
Vào cuối mỗi đại kỷ nguyên, tức là vào cuối mỗi Kali-yuga,
thần Vishnu sẽ xuất hiện dưới tên Kalki, tiêu diệt nhân
loại trong một trận hồng thuỷ hay đại hoả tai, rồi sau đó
tái thiết một đại kỷ nguyên mới.
Cuối mỗi Kalpa sẽ xảy ra một vụ huỷ diệt (pralaya) của
toàn thể vũ trụ. Vụ hủy diệt này mở đầu cho đêm của Brahmâ
khi thần này đi ngủ. Hết một đêm, thời gian dài bằng một
Kalpa, Brahmâ tỉnh giấc, lại bắt đầu một Kalpa khác của Vũ
Trụ tái sinh.
Cuộc đời của Brahmâ sẽ thọ 100 năm (tính theo mỗi ngày của
Brahmâ như trên).
Khi Brahmâ chết, ngày đó sẽ xảy ra một vụ đại huỷ diệt
(mahâpralaya) : toàn thể vũ trụ và thế giới thần linh đều
chết hết. Một trăm năm sau nữa, Brahmâ tái sinh, ṿng sáng
tạo và huỷ diệt lại bắt đầu.
Tính cho đến nay, Brahâm vừa được 50 tuổi.
CHÚ
THÍCH :
Hôn ám thời đại (Kali-yuga) chính là thời đại này của nhân
loại. Theo sự tính của người Ấn Độ th́ hiện nay chúng ta
đang sống trong khoảng năm 6.000 của kỷ nguyên Kaliyuga,
c̣n cách ngày tận thế 426.000 năm nữa.
BRAHMÂ ĐẤNG SÁNG TẠO
Brahmâ là Đại Tổ (Pitâmaha) tức là cha chung của muôn
loài, là đấng tự sinh tự hữu (Svayambhuâ). Cuộc đời của
Brahmâ chia ra ngày và đêm; ngày thức đêm ngủ. Khi Brahmâ
thức, vạn vật sinh trưởng; khi Brahmâ ngủ, vũ trụ tiêu
tan, nhưng sẽ tái sinh khi Brahmâ lâu bằng 4.320.000.000
năm ở trần gian; một đêm cũng lâu như vậy. Hiện nay Brahmâ
đă 50 tuổi và sẽ sống lâu 100 tuổi. (Xem phần nói về Kalpa
trên).
Về h́nh tượng, Brahmâ có màu da đỏ hồng (màu đỏ tượng
trưng cho nguyên lư sáng tạo trong thiên nhiên). Brahmâ có
bốn đầu ngoảnh nh́n về bốn phía biểu thị ư nghĩa quán
triệt khắp vũ trụ của Tứ Veda. Brahmâ có bốn tay : cầm bốn
pho Veda, hoặc có khi Brahmâ nắm bốn pho Veda ở tay thứ
nhất, tay thứ hai cầm trượng, tay thứ ba cầm cây cung và
tay thứ tư cầm một b́nh nước. Brahmâ thường cưỡi con Thiên
Nga (Hamsa) tượng trưng cho trí thức.
Về phẩm tính, Brahmâ là nguồn gốc của trí thức, và vợ của
Thần, nàng Sarasvâti, là h́nh ảnh nhân hoá của trí thức.
Chính Brahmâ đă truyền thụ trí thức tuyệt đối
(Brahmâ-vidya) cho đạo sĩ Atharvan, tác giả bộ
Atharva-Veda. Brahmâ cũng dạy áo nghĩa về vô biên (Brahmâ
Upanishad) cho Brajâpati (Đấng SángTạo, một danh hiệu của
Thượng Đế hữu ngă).
Brahmâ say mê nàng Ushas (Rạng đông), có cùng nàng một
người con trai là Manu, tổ của loài người và muôn vật, tác
giả của nhiều bộ pháp điển được gọi chung là Manu-samhitâ
hay Manu-smriti.
Thần Brahmâ có nhiều liên hệ mật thiết với nghệ thuật :
kiến trúc, hội hoạ, khiêu vũ, âm nhạc và kịch nghệ; thảy
đều là những cố gắng ca ngợi Thiêng Liêng, đồng thời phổ
cập hào quang vinh hiển của Thiêng Liêng nơi trần thế.
Một lần chư thần trên thiên giới cảm thấy chán nản v́ cuộc
sống thiếu hoạt động tại nơi đây bèn phái Indra tới yêu
cầu thần Brahmâ soạn cho một vở kịch để cùng thưởng thức.
Brahmâ bèn tham bác bốn bộ Veda cũ, soạn ra bộ Veda thứ
năm mệnh danh là Nâtya-veda (Veda về kịch nghệ) : phần đọc
tụng, ngâm nga rút ở Rig-veda; lời ca điệu múa gợi cảm lần
lượt rút ở trong Sâma, Yagur và Atharva veda (ca vịnh, tế
tự và cầu đảo). Khi soạn xong, Brahmâ nhờ Vishva-karman
(Hoá công) dựng lên một hí viện ở Thiên Đường của Indra.
Shiva đóng vai vũ công múa điệu Tândava tượng trưng cho sự
vận hành của vũ trụ. Vợ Shiva, nàng Pârvati* múa điệu
Lâysya; vũ điệu về t́nh ái. Vở ca vũ nhạc kịch đă thành
công rực rỡ, thổi lại luồng sinh khí tưng bừng, chói lọi
vào nếp sống chư thần trên thiên giới từ đấy.
(*)Pârvati, nghĩa đen là sơn nữ. Trong thần thoại Ấn Độ,
Parvâti là con gái của sơn thần Himavant, tức là núi tuyết
Himâylay.
CHÚ
THÍCH:
C̣n có nhiều truyền thuyết khác nhau về lai lịch Brahmâ.
Một truyền thuyết kể rằng Brhamâ ra đời do cuộc phối hợp
giữa đấng tối cao với năng lực của Ngài là Mâyâ (Ảo
tưởng). Một truyền thuyết khác lại nói Brahmâ sinh ra tự
một quả trứng vàng (kim noăn Hiranya-garba) trôi nổi trên
mặt biển nguyên thủy vô biên. Sau khi nằm trong trứng được
một năm, Brahmâ phân vỏ trứng làm đôi, một nửa làm thành
ṿm trời, một nửa làm thành đất, khoảng giữa là không
trung. Thuyết thứ ba cho rằng Brahmâ sinh ra tự một bông
sen mọc ở rốn của Thần Bảo Tồn Vishnu. H́nh ảnh này tượng
trưng ư nghĩa tái sinh do những mầm mống của tiền kiếp
được bảo tồn trong Vishnu. Và cũng do điển tích này,
Brahmâ c̣n có tên là Nabhi-ja (tự rốn sinh ra), hoặc
Abja-ja (tự bông sen sinh ra).
Chính ra Brahmâ có 5 đầu, bị Shiva hủy mất một nên chỉ c̣n
bốn. Sự tích Brahmâ có 5 đầu thường được kể như sau :
“Brahmâ lấy chất vô nhiễm của ḿnh tạo thành một người đàn
bà. Nữ thần này được thờ với nhiều tên khác nhau là
Shataruâpâ (Bách Tướng), Vâc (Thượng Ngôn cũng như Ngôi
Lời) hay Sarasvâti (Hùng Biện), Savitĩ (Thánh Mẫu),
Gâyatri (Thánh Ca) và Brahmani (vợ của Brahmâ). Khi ngắm
người con gái do chính ḿnh tạo ra, Brahmâ bị mê hoặc bởi
dục tính, Shararuâpâ phải lẩn về phía tay mặt để Brahmâ
khỏi nh́n thấy. Brahmâ bèn mọc thêm một đầu trông ra phía
mặt; nàng lẩn về phía trái; Brahmâ mọc thêm một đầu ra
phía trái; nàng lẩn về phía sau, Brahmâ mọc thêm một đầu
trông ra phía sau; cuối cùng nàng bay lên không, Brahmâ
lại mọc thêm một đầu thứ năm để ngắm nh́n nàng.”
C̣n về việc Brahma bị Shiva hủy mất cái đầu thứ năm cũng
có nhiều truyền thuyết. Truyện th́ cho là v́ chính miệng
của đầu ấy khoe rằng Brahmâ ưu thế hơn Shiva; truyện th́
cho rằng v́ miệng ở đầu ấy đă nói dối trong một cuộc tranh
tài giữa Brahmâ và Vishnu; truyện th́ kể v́ Brahmâ phạm
tội loạn luân nên Shiva bèn trừng phạt bằng cách chiếu con
mắt thứ ba vào cái đầu ấy và đốt nó ra tro.
Trong ư nghĩa triết học, Brahmâ biểu thị khuynh hướng vận
động điều ḥa (rajas), tạo nên thế quân b́nh giữa hai
khuynh hướng qui tâm (sattva) và ly tâm (tamas), giữa bảo
tồn và hủy diệt mà thần Vishnu và Shiva là biểu hiện.
Chính cái tác dụng điều động quân b́nh ấy mới thực sự là
nguyên lư sáng tạo, bởi vậy Brahmâ biểu thị cho sự sáng
tạo.
Mặc dầu vai tṛ của Brahmâ có vẻ quan trọng nhất, địa vị
của Brahmâ lại sút kém nhất trong ba ngôi tối linh. Lư do
có thể v́:
- Đứng ở phương diện đạo đức, Brahmâ đă phạm tội dối trá
và loạn luân. Thần thoại trên đây đă kể do sự phối hợp của
Brahmâ và Ushas (Rạng Đông) mà sinh ra Manu, tổ của loài
người và muôn vật. Ushas chính là con gái của thần.
- Đứng về phương diện triết lư mà suy th́ v́ có sự sáng
tạo của thần mà con người phải đắm ch́m trong bể khổ ,
trong ṿng thiện, ác xung đột và bị tách rời khỏi chân lư
và hạnh phúc tuyệt đối. Như vậy sáng tạo không hẳn là một
hành động đầy ân phước mà chính là một hành động đọa đày,
nếu không bị chống đối th́ cũng chẳng đáng được sùng bái
nhiệt thành.
THẦN
HỦY DIỆT SHIVA
Dưới h́nh ảnh như nhân, Shiva có nước da trắng tượng trưng
cho bản chất thuần túy của tất cả màu sắc. Shiva có ba mắt
tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và ngọn lửa thế gian,
có thể nh́n thấu quá khứ, hiện tại và tương lai. Mái tóc
rối của Shiva tượng trưng thần gió. Mái tóc đó cũng tượng
cho sức mạnh v́ sông Hằng Hà linh thiêng khi nhận lời cầu
xin của một đạo sĩ thấu thị (Rishi) xuống trần, Shiva đă
phải xơa tóc cho ḍng nước xuôi theo và đổ xuống nhẹ
nhàng, nếu không th́ thế gian đă rung chuyển và xụp đổ tan
tành.
Một hôm thần Brahmâ trông thấy thần Vishnu đang nằm trên
một chiếc lá sen trên mặt nước nguyên thủy, Brahmâ hỏi
danh tính. Vishnu bèn xưng danh và kêu Brahmâ bằng con.
Brahmâ tức giận và tuyên bố chính ḿnh mới là đấng sáng
tạo và hủy diệt vũ trụ. Vishnu bát bỏ lời của Brahmâ,
cương quyết cho ḿnh mới là đấng sáng tạo, bảo tồn và hủy
diệt vũ trụ. Hai bên đang căi cọ tranh giành ngôi thứ, th́
bỗng hiện ra một cột lửa cao ngất tưởng chừng như không có
khởi nguyên. Hai thần bèn ngừng cuộc tranh luận và đồng ư
chia nhau đi t́m đầu và cuối của cột lửa. Vishnu đi xuống
dưới gốc và Brahmâ đi lên phía ngọn. Sau một thời gian
thám hiểm rất lâu, cả hai đều không đạt được mục đích và
phải trở về nơi gặp gỡ ban đầu. Vừa khi đó không gian bỗng
vang lên âm thanh linh thiêng của tiếng AUM* và Shiva xuất
hiện giữa cột lửa khiến cả Brahmâ và Vishnu đều cảm thấy
hân hoan. Khi ấy Shiva bèn nói cho hai thần biết rằng
không có ai hơn, ai kém, và ba ngôi tối linh
Brahmâ-Vishnu-Shiva chỉ là ba tác dụng khác nhau của cùng
một bản thể.
(*) AUM : Linh ngôn, âm thanh linh thiêng biểu thị quyền
năng về cả ba phương diện : sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt.
AUM cũng là thần chú đọc trong các buổi tế lễ, và có lẽ là
gốc của tiếng UM trong Việt ngữ.
Shiva có hai đời vợ nhưng cùng là một người trải qua hai
kiếp. Kiếp thứ nhất nàng tên là Satĩ (Hiền phụ), con gái
của Daksha (Tài Trí), một trong tám vị thần sáng tạo do
Brahmâ tạo ra. Daksha vốn không vưa Shiva v́ Shiva thường
có bề ngoài là một đạo sĩ khất thực tiều tụy và không tỏ
thái độ tôn kính ḿnh. Daksha đă đuổi Satĩ ra khỏi địa
phận của ḿnh khi nàng nhất định chọn Shiva làm chồng.
Một lần Satĩ về nhà vào dịp làm lễ mừng thần Vishnu,
Daksha đă không tiếc lời nhục mạ nàng cùng Shiva. Satĩ bèn
thoát hồn trả lại thân xác cho cha. Shiva nổi giận, giết
chết Daksha tức th́.
Satĩ tái sinh làm con gái của thần núi Himâlaya (Núi
Tuyết), mang tên là Umâ Himavutee và thường được gọi là
Pârvatĩ (Sơn nữ). Sau nhiều lần thử thách về đức tính,
Shiva lấy Pârvatĩ làm vợ.
Chúng ta c̣n nhớ Shiva đă múa vũ điệu Tândava, tượng trưng
cho sự vận hành của vũ trụ tại hí viện Thiên Đàng của thần
sét Indra. Khi nhảy múa như vậy, Shiva đă cho phát ra năm
cung điệu căn bản. Khi vợ Shiva là nàng Pârvatĩ cất tiếng
hát th́ có thêm một cung điệu thứ sáu. Sự kết hợp giữa
Shiva và Pârvatĩ biểu thị sự kết hợp giữa Chất và Năng
chuyển hóa thành các âm điệu và cung bậc. Các cung điệu có
liên hệ với toàn thể vũ trụ v́ mỗi cung âm có một giá trị
riêng biểu thị cho một hệ thống tinh thể, và toàn thể hệ
thống tinh thể chính là nguồn gốc các âm thanh phát ra
trong vũ trụ.
Con trai lớn của cặp vợ chồng Shiva- Pârvatĩ là Kârttikeya
đă có công diệt được quỷ Târaka, đem lại yên vui cho thế
giới thần linh và được thờ làm thần chiến tranh.
Con thứ hai của Shiva và Pârvatĩ là Ganesha, ḿnh người
đầu voi, được tín đồ Ấn Độ giáo tin thờ như một phúc thần,
ban phát hạnh phúc thịnh vượng cho nhân loại.
CHÚ
THÍCH:
Shiva là vị thần tiền Veda cổ xưa nhất của dân bản xứ Ấn
độ; đến khi đồng hóa với dân tộc Aryan, Shiva đă thay thế
cho thần Băo Rudra trong Veda để làm giảm bớt cái ư nghĩa
ghê gớm của danh hiệu Rudra. Sống với chết không những chỉ
tiếp nối nhau mà c̣n đồng nhất với nhau. Với tư cách
nguyên lư của sáng tạo, Shiva là nguồn sống. Nhưng tại sao
người ta lại coi Shiva là biểu hiện cho hủy diệt (Tamas)?
Tamas nghĩa đen là tối tăm, biểu thị cho khuynh hướng ly
tâm, hủy diệt (trái với sattva biểu thị cho khuynh hướng
quy tâm, xây dựng). Vũ trụ càng phân tán tức là càng tan
ră, ḥa đồng vào đêm tối của vô chất nguyên thủy, chấm dứt
mọi sự phân biệt trong không gian và thời gian. “Hữu h́nh
tất hữu hoại” là định luật thiên nhiên tất yếu. Từ u tịch
mà có sự sống, sự sống lại trở về u tịch, bởi thế tamas
vừa là nguyên nhân, vừa là cứu cánh của mọi đời sống, và
v́ cứu cánh quan trọng hơn hết nên Shiva được mệnh danh là
thần hủy diệt.
Với ư nghĩa ấy, Shiva c̣n được mệnh danh là thần của giấc
ngủ. Khi mọi người đă chán hành động, chán sống, chán
biết, chán lạc thú và đau khổ, và đi t́m một sự yên nghỉ
thực sự trong giấc ngủ say không mộng. Khi ấy họ trở về
với Chúa tể của giấc ngủ, chốn yên tịnh, cực lạc (Sambha).
Ơũ nơi đó vũ trụ nghỉ ngơi và an giấc.
THẦN
BẢO TỒN VISHNU
Hai h́nh ảnh thông thường nhất cho ta thấy Vishnu nằm nghỉ
trên ḿnh của xà thần Shesha (Di Tích), bềnh bồng trên mặt
biển nguyên thủy Ananta (Vô Biên), hoặc Vishnu đứng thẳng,
bốn bàn tay nắm giữ bốn vật tượng trưng là vỏ ốc, đĩa
tṛn, bông sen và cái chùy. Vỏ ốc tượng trưng ngũ hành;
cái đĩa sáng như mặt trời tượng trưng thần trí; bông sen
tượng trưng vũ trụ vận hành; và cái chùy tượng trưng cho
trí thức nguyên thủy.
Về hóa thân (Avâtara) th́ có nhiều, nhưng thông thường
người ta chỉ nói đến mười kiếp hóa thân của Vishnu trong
mỗi đại kỷ nguyên (mâhayuga). Đó là :
1. Matsya (Cá) cứu cho Manu, tổ loài người, thoát khỏi nạn
hồng thủy. Chuyện này khiến cho chúng ta liên tưởng đến
chuyện Noé và chiếc tàu trong Kinh Thánh vào dịp đại hồng
thủy, nước dâng lên trên mặt đất trọn một trăm năm mươi
ngày.
2. Kârma (Rùa), giúp cho chư thần vét Biển Sữa (Samudra
mathana) để thâu hồi những sinh vật và dụng cụ cần thiết
đă bị thất lạc trong trận hồng thủy.
3. Vâraha (Lợn rừng) kéo mặt đất ch́m dưới đáy đại dương
lên mặt nước để cho muôn loài cư ngụ.
4. Narasimha (Nhân Sư), ḿnh người đầu sư tử, giúp cho
Prahlâda, con trai quỷ vương Hyranya Kashipu, thoát khỏi
nanh vuốt của cha y để có thể tu thành chính quả.
Bốn kiếp hóa thân trên đây thuộc đệ nhất kỷ nguyên, tức
Kritayuga, thời đại hoàng kim.
5. Vâmana (Người Lùn) dùng mưu để truất ngôi của Quỷ vương
Bali khi ấy đang làm chúa tể ba cơi (Trời, Đất, Địa Ngục).
6. Parashu Râma (Râma cầm ŕu), hai mươi mốt lần tiêu diệt
đẳng cấp chiến sĩ (Kashatriya) để lấy lại uy quyền cho
đẳng cấp Bà La Môn (Brâhmana).
7. Ông hoàng Râma, nhân vật chính của thiên anh hùng ca
Râmâyana, và là vua xứ Ayodhyâ, tiêu diệt quỷ vương Râvana
xứ Lankâ (Tích Lan ngày nay) để cứu văn ḥa b́nh và công
lư. (Sẽ đọc sau đây).
Ba kiếp hóa thân trên đây thuộc đệ nhị kỷ nguyên, tức
Tretâyuga, thời đại bạch ngân.
8. Krishna (ông Hoàng đào hoa), nhân vật quan trọng trong
thiên anh hùng ca Bhagavad-gitâ, chỉ dẫn cho nhân loại làm
thế nào thực hiện được giải thoát.
Krishna xuất hiện vào cuối Đệ tam kỷ nguyên tức
Dvâpara-yuga, thời đại thiện ác quân b́nh.
9. Buddha (Phật) xuất hiện để giải thoát nhân loại bằng tứ
diệu đế và bát chánh đạo.
10. Kalki (Thành Tựu) chưa xuất hiện. Thần này sẽ ngự trên
ḿnh ngựa trắng, tay cầm thanh kiếm sáng như sao chổi, và
khi xuất hiện, toàn thể vũ trụ sẽ bị tiêu diệt để sau đó
lại được tái thiết lập trong một đại kỷ nguyên mới, mở đầu
bằng thời đại hoàng kim.
Buddha và Kalki thuộc đệ tứ kỷ nguyên, tức Kali-yuga, thời
đại hỗn loạn.
CHÚ
THÍCH:
Cũng như giữa hai đầu sinh và tử là sự sống, giữa thần
Sáng Tạo Brahmâ và thần Hủy Diệt Shiva, có thần Bảo Hộ
Vishnu. Vishnu sẵn sàng che chở và cứu giúp con người. Khi
cần đến, Vishnu sẽ giáng trần để trực tiếp ra tay tế độ
chúng sinh. Bởi bản tính tốt lành ấy, đền thờ Vishnu đầy
rẫy khắp Ấn Độ và người ta đă mệnh danh Vishnu bằng những
danh hiệu vô cùng tốt đẹp như Thánh của các Thánh
(Pavitram pvitrânâm), Đạo (Marga), chân lư (Tattva), Từ
phụ (Pitâ), Thân Hữu (Suhrid)…
Danh từ Vishnu do tự căn Vish nghĩa là tràn lan thấm nhập.
Vishnu biểu hiện phẩm tính thuần khiết (Sattva) có khuynh
hướng quy tâm, trái với phẩm tính hủy diệt (Tamas) có
khuynh hướng ly tâm mà Shiva là biểu hiện.
Ấn Độ Giáo dường như không muốn thừa nhận Phật là hóa thân
của Vishnu v́ đường lối Phật trái ngược với chế độ tứ đẳng
cấp của truyền thống Ấn Độ Giáo.
Dư luận các học giả trên thế giới th́ nhiều người lấy làm
lạ về điểm đạo Phật xuất hiện ở Ấn độ mà rồi lại rời khỏi
Ấn Độ để phát triển ở ngoài Ấn Độ. Điều đáng ngạc nhiên
hơn nữa là đạo Phật rời khỏi Ấn Độ mà không hề gây sự va
chạm đổ máu nào.
Thật ra tinh thần đạo Phật vốn uyển chuyển như nước, đi
tới nơi nào thích nghi với tinh thần dân tộc nơi đó. Như
Bloomfield, tác giả cuốn The Religion of the Veda, đă xác
nhận là không có một h́nh thức tư tưởng quan trọng nào ở
Ấn Độ, kể cả triết học Phật Giáo, mà không bắt nguồn từ Áo
Nghĩa Thư Upanishad. Vậy đến như ra nước ngoài mà đạo Phật
c̣n dễ dàng đồng hóa với tinh thần từng dân tộc, nói chi
ngay tại xứ sở ḿnh! Chuyện Phật là hóa thân thứ chín của
Vishnu chính là ngụ ngôn “lá rụng về cội”, giải quyết được
mọi thắc mắc trên của các học giả thế giới – đặc biệt học
giả Tây phương.
TRUYỆN ÔNG HOÀNG ĐÀO HOA KRISHNA*
(hóa
thân thứ tám của thần Vishnu)
(*) Kể lại theo bản Anh văn : Ethel Beswick, Tales of
Hindu Gods and Heroes, Jaico Book Edition, Bombay 1960.
Thần giáng sinh vào lúc hoàng tộc có sự bất ḥa : Kansa
truất ngôi cha, hạ ngục chị là bà Devaki, cùng chồng bà là
Vasu-deva. Không những chỉ hạ ngục anh chị, mà c̣n hạ lệnh
giết bất cứ người con nào của chị sinh ra v́ có lời tiên
tri Kansa sẽ bị giết bởi một người con của bà Devaki.
Kansa đă giết tất cả sáu đứa con của Devaki. Khi bà này
sắp sửa sinh hạ đứa thứ bảy th́ thần Vishnu tới cứu bằng
cách lấy bào thai c̣n trong tử cung mang lại trao cho
Rohini, người vợ khác của Vasu-Deva, lúc đó đương sống
cùng hai vợ chồng người chăn ḅ Nanda và Yashodâ tại
Gokula. Tới kỳ hạn, đứa trẻ bọc sinh ra và mang tên là
Bala-Râma. (Chính là hóa thân của rắn thần Ananta mà thần
Vishnu vẫn nằm nghỉ ngơi trên đó)
Sau đó bà Davaki lại mang thai đứa thứ tám. Vào lúc bà hạ
sanh đứa trẻ này, nhă nhạc vang lừng, trên mặt đất các cây
đều nở hoa tưng bừng. Đứa trẻ này chính là thần Vishnu
giáng sinh lần thứ tám thành Krishna. Khi vừa sinh ra,
Krishna xuất hiện trước cha mẹ với vương miện trên đầu,
ḿnh mặc áo vàng, bốn tay cầm bốn vật tượng trưng là vỏ
ốc, đĩa tṛn, bông sen và cái chùy. Krishna nói với cha mẹ
hăy mang ḿnh tới nhà Yashodâ để đánh tráo lấy đứa con gái
mà Yashodâ sắp sinh. Dứt lời, Krishna trở lại h́nh hài đứa
trẻ sơ sinh. Tuy sự hiển hiện cùng lời dặn ḍ vừa qua rất
đỗi kỳ lạ, Vasu-Devâ cũng quyết định tuân theo. Ông đặt
đứa trẻ nằm gọn trong một cái lẵng, rồi đội lên đầu sửa
soạn ra khỏi nhà tù. Những dây xích tự nhiên được tháo
tung, cửa ngục mở, các lính canh ngục ngủ thiếp trong mê
man và Vasu-Devâ ra đi êm thắm.
Trên đường đi, Vasu-Devâ phải lội qua con sông Yamunâ. Lội
tới giữa ḍng, đứa trẻ bỗng trở nên nặng quá chừng, nước
sông lại gần ngập tới đầu, khó mà lội qua được. Nhưng khi
đứa trẻ vừa khỏa chân xuống nước, ḍng sông bỗng rút cạn,
thế là hai cha con sang bờ yên lành.
Khi tới nhà Nanda, có tiếng vọng ra bảo Vasu-Devâ cứ vào,
cứ đặt đứa con trai xuống bên cạnh Yashodâ và mang đứa trẻ
gái Yashodâ mới sinh trở về ngục. Việc xảy ra thật lẹ và
êm thắm. Cả Nanda và Yashodâ đều không hay biết chi cả. Từ
đấy Yashodâ nuôi nấng Krishna mà vẫn tưởng là nuôi chính
con ḿnh đẻ ra.
Nghe tin chị sinh, Kansa lại t́m cách giết đứa trẻ, lần
này cô gái hiện h́nh một nữ thần bảo với Kansa rằng đứa
trẻ mà Kansa muốn giết hiện đương sống ở Gokula bên kia bờ
sông Yamunâ. Kansa bèn sai bầy âm binh của ḿnh đi giết
hết những trẻ sơ sinh của cả vùng này.
Chuyện kể về thời thơ ấu của Krishna thật nhiều. Yashodâ
luôn luôn lo lắng về những hành vi lạ lùng của chú bé, mới
phút trước chú là chú bé thường, phút sau chú đă hiện
thành đấng chí tôn của vũ trụ. Bà cũng lo lắng về việc
Kansa luôn luôn t́m cách ám hại đứa trẻ. Một lần Kansa sai
Pâtanâ, một con ma cà rồng, hiện thành h́nh một người đàn
bà có vẻ đẹp dịu hiền tới bế đứa trẻ lên ḷng cho bú.
Krishna hút hết chất độc tự vú con yêu ra, khiến nó chết
tức khắc và hiện nguyên h́nh.
Một lần khác Yashodâ đặt chú bé chơi yên lành dưới gầm một
chiếc xe ḅ lớn trong sân. Yashodâ vừa đi nơi khác, một
con quỷ bộ hạ của Kansa bèn nhảy lên định làm cho chiếc xe
sập xuống nhưng Krishna đă lấy ngón chân hất phăng chiếc
xe nặng đập vào tường đối diện, giết chết tươi con quỷ.
Một lần khác Yashodâ đương cùng chú bé đùa th́ một đám mây
đen kịt bất chợt sà xuống, túm lấy cổ chú bé rồi bay lên
cao. Lần đó cơ hồ không c̣n cách ǵ cứu được chú bé, nhưng
đám mây bị cưỡng bay chậm lại rồi hạ thấp dần … thấp dần
xuống làng, chú bé thoát nạn.
Một lần Yashodâ muốn giữ cho chú bé khỏi nghịch bèn cột
chú vào trục một bánh xe. Nhưng chú đâu chịu đứng nguyên
một chỗ. Chú kéo lết chiếc bánh xe tới phía hai cây cổ thụ
lớn mọc sát bên nhau. Chú gắng đi lọt vào giữa, chiếc bánh
xe bị mắc chặn, chú vẫn kéo làm hai cây cổ thụ đổ rụp.
Bỗng có hai thần linh hiện lên nói họ vốn đă bị cầm tù
trong cây từ lâu, nay được Krishna phóng thích, họ xin một
ḷng quy thuận và thờ phụng như bậc thầy.
Krishna thường hay lấy cắp bơ của các bà hàng xóm để phân
phát cho khỉ và cho lũ trẻ khác, nhưng khi các bà tới mách
th́ bà nào cũng ngạc nhiên nhận thấy rằng Krishna đă lấy
cắp bơ ở nhà ḿnh vào cùng một lúc, c̣n bà Yashodâ lại xác
nhận rằng cũng lúc ấy Krishna không hề ra khỏi nhà.
Một lần khác Krishna bốc đất bỏ vào miệng khi bà Yashodâ
mở miệng Krishna để lấy đất ra th́ được chứng kiến h́nh
ảnh toàn thể vũ trụ.
Khi lên sáu, lên bảy, Krishna được phép theo anh là
Balâ-râma ra đồng cỏ chăn đàn súc vật. Khoảng thời gian
này trong rừng Brindâban thường vang ṛn những tiếng cười
của Krishna cùng lũ bạn mục đồng. Krishna rất thích thổi
sáo, tiếng sáo huyền ảo đến nỗi ḍng sông Yamunâ cũng chạy
lạc đường v́ mải nghe, và những bông sen khắp vùng đều
bừng nở măn khai trong hân hoan.
Một lần có con rồng khổng lồ ẩn ḿnh rất khéo chỉ để lộ
riêng chiếc miệng há rộng của nó. Lũ trẻ mục đồng ngỡ đó
là cửa động bèn chạy ùa vào. Con rồng hít hơi lùa cả lũ
trẻ cùng đàn súc vật vào bụng. Lũ trẻ la hét kêu cứu
Krishna. Krishna bèn tới cho con rồng hít nốt ḿnh vào
bụng. Nhưng khi đă vào trong, Krishna trở thành cao lớn dị
thường làm vỡ bụng con rồng, lũ mục đồng và đàn súc vật
được cứu thoát toàn vẹn.
Một ngày kia có một con hạc khổng lồ cao bằng trái núi tới
đậu bên bờ sông. Krishna để cho con hạc cặp ḿnh giữa mỏ.
Nhưng hạc chưa kịp nuốt th́ Krishna đă trở thành một vật
nóng bỏng, con hạc muốn nhả tức khắc, nhưng Krishna vẫn
bám lấy, cố làm cho đứt mỏ hạc khiến con chim khổng lồ
phải răy chết.
Một lần khác quỷ Metrâsur hiện thành h́nh một con cừu đực,
thoạt giả vờ gậm cỏ yên lành, rồi bất chợt lao hết tốc độ
về Krishna. Ai cũng nghĩ rằng lần này Krishna tất phải
chết, nhưng Krishna vẫn điềm nhiên đợi lúc con quỷ vừa
tới, bèn vung tay nắm lấy gáy cừu quay tít mấy ṿng trên
không rồi ném thẳng vào gốc cây. Metrâsur tan xác, máu
thịt văng tung tóe khắp nơi.
Vào một ngày nóng nực, đoàn mục đồng tới hồ Kâliya uống
nước. Chúng không biết nước hồ đă nhiễm độc từ lâu, v́ vậy
chúng chết hết. Thấy vậy, Krishna khóc rống lên, nước mắt
tiếc thương rỏ xuống và các bạn nhỏ đều hồi sinh. Krishna
bèn quyết định giết con rắn độc ngụ dưới hồ. Con rắn độc
Kâliya này đă phải rời bỏ chỗ ở cũ của nó v́ sợ thần điểu
Garuda (do Vishnu thường cưỡi). Garuda sở dĩ không tới
rừng Brindâban v́ có lời nguyền của một đạo sĩ nếu nó tới
đó sẽ bị chết. V́ vậy Kâliya vẫn được sống yên lành ở hồ
này. Nọc độc của nó tiết ra khiến không một loài cây cỏ
nào sống nổi quanh hồ, trừ một gốc cổ thụ. Nguyên do cây
này đă một lần Gurada tới đậu; v́ Garuda là thần điểu của
Vishnu nên cây được nhiễm chất linh thiêng mà không bị nọc
rắn làm chết. Một hôm, lũ mục đồng đương chơi banh, trái
banh rớt xuống hồ. Krishna trèo lên cây, nhảy xuống hồ.
Kâliya thấy nước hồ bị khuấy rộn th́ giận lắm, bèn nghển
cả trăm đầu lên quan sát. Thấy chú bé, nó bèn quấn lấy kéo
xuống đáy hồ, định mổ cho chết. Nhưng răng rắn vừa đụng
tới thịt th́ Krishna bắt đầu lớn bồng lên; lớn đến mức
Kâliya buộc ḷng phải thả chú.
Trong khi đó lũ mục đồng trên bờ hoảng sợ, một vài đứa
chạy về báo bà Yashodâ và Nanda.Bà Yashodâ muốn liều nhảy
xuống hồ cứu con, nhưng Bala-râma khuyên bà đừng lo ngại,
Krishna quyết thắng trận và trở lên. Đoạn Bala-râma trèo
lên cây lấy tù và ra thổi, ư báo cho Krishna biết rằng mẹ
đương lo lắng. Krishna bèn thả cho ống sáo của ḿnh nổi
lên mặt nước, gián tiếp báo rằng ḿnh không sao. Các bạn
bè của Krishna thấy vậy càng sợ hăi v́ chúng cho rằng
không bao giờ Krishna muốn rời chiếc sáo của ḿnh cả.
Bala-râma lại thổi một điệu tù và khác xin Krishna chứng
tỏ rằng ḿnh c̣n sống. Krishna bèn quặp lấy một đầu con
rắn ngoi lên khỏi mặt nước. Đầu rắn đảo quẫy làm chiếc
lông công như nhảy múa trên mặt nước khiến mọi người đều
cho là Krishna bị giết đến nơi rồi. Không lâu Kâliya kiệt
sức, Krishna tuần tự chém rụng những đầu của nó. Lúc
Krishna sắp hạ độc thủ, chém nốt chiếc cuối cùng th́ lũ vợ
con rắn sụp lạy xin chú hăy tha sống cho chồng, cho cha.
Krishna ưng thuận với điều kiện rắn phải trở về chốn cũ.
Kâliya đáp nếu nó về chốn cũ th́ thần điểu Garuda sẽ ăn
thịt nó mất. Krishna bảo nó cứ yên chí, khi thần điểu
Garuda thấy dấu chân Krishna trên đầu nó, sẽ không bao giờ
t́m cách hại nó nữa. Thế là Krishna lên bờ. Lúc đó đă muộn
lắm rồi, không ai kịp về nhà. Mọi người đồng ư ngủ qua đêm
trong rừng. Họ tụ tập dưới một cây đa cổ thụ. Nửa đêm rừng
phát hỏa, đám mục đồng thức giấc kêu cứu. Krishna ba lần
mở miệng hút hết lửa, cứu được nạn cháy rừng.
Krishna đă lớn dần để trở thành một chàng thanh niên.
Một lần vào đầu vụ gió mùa, dân chúng như thường lệ sửa
soạn làm lễ dâng lên thần Indra (thần Sét). Krishna nói
điên ǵ mà cầu cúng thần Indra để xin cho được mùa. Mùa
màng xấu hay tốt là do số phận của chính ḿnh! Thần Indra
giận lắm và để chứng tỏ rằng quyền uy của thần lớn hơn
Krishna, thần bèn hóa phép mưa to gió lớn, nước sông
Yamunâ biến thành thác lũ tràn bờ.
Krishna bèn dẫn dân chúng cùng gia súc lên đường tới núi
Govardhana; Krishna dùng một ngón tay nhấc bổng núi lên
làm nơi trú ẩn cho cả đoàn người và vật. Suốt trong bảy
ngày, ai nấy sống yên lành khô ráo.
Indra biết không thể thắng được, đành cho mặt trời ló
rạng, ḍng sông trở lại an lành, đoàn người và vật trở về
làng, núi được hạ xuống y như cũ. Indra cưỡi bạch tượng
Airâvata tới ra mắt, chịu thần phục Krishna.
Một hôm Krishna lấy trộm tất cả quần áo của đám phụ nữ tắm
dưới sông. Họ cầu khẩn xin Krishna trả lại. Krishna bắt họ
từng người phải đích thân tới lấy. Đây Krishna không có ư
ǵ khác hơn là dạy cho họ một bài học cao cả về tâm linh*,
bù lại Krishna hứa sẽ cùng họ khiêu vũ vào một đêm trăng
rằm.
(*) Có sách giảng : lũ ḅ tượng trưng các giác quan; các
cậu mục đồng tượng trưng trí khôn; các cô mục đồng tượng
trưng trí thức; đồ các cô mặc ngoài tượng trưng sự ngu
dốt. Lấy cắp đồ tức là lấy đi sự ngu dốt làm sáng tỏ chân
lư.
Tới đúng kỳ trăng tṛn, tiếng sáo huyền ảo của Krishna
vang tới làm những phụ nữ đó không sao ngủ được. Họ bèn kẻ
trước người sau lẻn chồng, ra khỏi nhà, theo đường tới
rừng. Sau một giây lâu hội họp, Krishna bảo họ phải trở về
v́ họ đă được ngắm trăng đẹp bên bờ sông rồi. Cả bọn khóc
lóc năo nề xin Krishna đừng sớm ruồng rẫy như vậy. Không
nỡ phụ ḷng ưu ái của họ, Krishna đành đích thân san phẳng
một khoảng cao màu vàng lộng ngay trên bờ sông để sửa soạn
làm nơi khiêu vũ. Trong khi đó các thiếu nữ xuống tắm dưới
hồ Mânasa-rovara (hồ linh thiêng), lên trang điểm cho thật
đẹp, rồi các cô nhảy ṿng tṛn xung quanh Krishna như quâu
ṿng tṛn một vừng trăng sáng. Khi ḷng tự kiêu của các cô
lồ lộ trên nét mặt th́ Krishna biến mất, chỉ mang theo có
mỹ nhân Râdhâ. Các cô khóc lóc, đi sâu vào rừng hỏi thăm
chim muông, hoa cỏ xem có thấy Krishna ở đâu không. Các cô
gặp lại nàng Râdhâ cũng đương khóc mếu v́ mất Krishna. Có
ǵ đâu, cũng v́ nàng kiêu hănh là đă riêng được chàng mang
đi, chàng bèn biến mất. Các nàng đưa nhau trở về khoảng
đất cao màu vàng lộng trên bờ sông ngồi khóc nỉ non. Thấy
vậy Krishna trở lại. Cuộc khiêu vũ dưới trăng lại được
tiếp tục. Krishna tự phân thân thành đủ số Krishna cho mỗi
cô. Họ nắm tay nhau khiêu vũ tưng bừng, trông xa như một
chiếc ṿng lớn nạm vàng và ngọc bích : ánh vàng là khuôn
mặt của từng Krishna, ánh ngọc bích sáng ngời là khuôn mặt
của các nàng.
Tiếng gà báo sáng đâu đây. Trăng tà về đỉnh non Tây tự lúc
nào. Tới giờ phải chia tay rồi; Krishna nói với các nàng
hăy luôn luôn suy niệm về t́nh bạn cao quư này, như vậy
nào có khác ǵ họ thường xuyên hiện diện bên nhau. Ai nấy
vui vẻ ra về, và không một ai khác trong làng biết chuyện
khiêu vũ trong đêm cả.
Kansa suốt mười mấy năm trời t́m đủ thiên phương bách kế
mà không giết nổi Krishna đành cho mời Krishna, Nanda và
toàn thể các bạn mục đồng trai của Krishna về kinh đô
Mathurâ dự hội. Krishna và các bạn chàng nhận lời. Tới ven
đô, mọi người dừng lại, chỉ một Krishna vào thăm trước địa
điểm mở hội. Chàng tiến thẳng tới khán đài danh dự nơi
Kansa sẽ ngự lăm, nơi đây có treo cây cung thần của Shiva,
tượng trưng cho uy quyền ngự trị của Kansa. Tương truyền
cây cung đó chưa có ai giương nổi. Krishna lẹ làng kéo dây
cung, cánh cung uốn cong và găy làm đôi, tiếng vang dội
làm cả kinh đô kinh hoàng. Kansa linh cảm ngày cuối cùng
của ḿnh đă đến.
Hôm sau, Kansa tới khai mạc ngày hội chính thức. Krishna
cùng anh là Bala-râma dẫn đầu đám bạn mục đồng vào. Tới
cửa giác đấu trường, Kansa đă cho phục một con voi cực
lớn, anh quản tượng được lệnh thúc cho voi tiến lên dày
xéo cả đám đông, nhưng Krishna nắm đuôi voi kéo lùi lại
nhẹ như kéo một chú bê nhỏ. Cả voi lẫn quản tượng cùng bị
giết. Hai tay cầm hai chiếc ngà bự, Krishna cùng anh vào
thẳng giác đấu trường, đấu vật với vô địch của nhà vua.
Tên này làm sao địch nổi Krishna. Kansa uất hận, bèn hạ
lệnh cho ngự lâm quân bắt giữ hai anh em, nhưng Krishna đă
nhảy tới kết liễu đời tên thoán đạt phản phúc. Cha Kansa
trở lại ngôi báu. Krishna cứu cha, mẹ ruột ḿnh ra khỏi
nhà ngục.
Trong mấy năm đầu, Krishna đă giúp vương quốc này đẩy lui
nhiều vụ xâm lăng và trừ khử nhiều tà quái tới quấy nhiễu.
Viswakarman, kiến trúc gia thần thông, đă xây một đô thị
duyên hải cho Krishna, mang tên là đô thị Dwârakâ. Nhiều
khi Krishna dùng phép thần thông mang cả dân chúng Mathurâ
tới Dwârakâ trong một đêm, khiến sớm hôm sau khi bừng mắt
dậy, họ rất đỗi ngạc nhiên thấy quanh ḿnh biển cả bao la.
Krishna cưới tới hàng ngàn vợ**, ngôi chính tất là nàng
Rukmini. Tương truyền nàng Rukmini ngưỡng mộ Krishna từ
thuở nhỏ, nàng vẫn hằng cầu nguyện mong được làm vợ
Krishna. Lớn lên, các anh nàng muốn gả nàng cho người
khác. Nàng viết thơ nói rơ nỗi ḷng ḿnh với Krishna.
Krishna tới cứu nàng vào đúng lúc nàng sắp làm lễ kết hôn
với người do các anh lựa chọn. Nàng được đưa về Dwârakâ.
Cùng Krishna, nàng sinh hạ được người con trai tên là
Pradyumna mà người ta cho chính là hóa thân của thần t́nh
yêu Kâma-deva. Với bà vợ nào, Krishna cũng có được mười
cậu con trai và một cô con gái.
(**) Thực ra đây cũng hàm ngụ ư nghĩa tượng trưng. Krishna
tượng trưng cho mọi yếu tố dương ḥa hợp với mọi yếu tố âm
để sinh sản và trường tồn trong trời đất.
Một vị đạo sĩ ṭ ṃ muốn biết Krishna đă làm thế nào mà
sống ḥa thuận được với hàng ngàn bà vợ như vậy, th́ rất
đỗi ngạc nhiên thấy rằng bà nào cũng khoe là chính Krishna
cùng ở với bà. Thành ra tất cả hàng ngàn vị phu nhân ai
nấy đều sống rất hỉ hả.
Một hôm bà chính thất Rukmini hỏi đức ông chồng là ông
trung thành với ai nhất. Krishna đáp “Râdhâ!”.
V́ Râdhâ là bóng đẹp xuất hiện tự tuổi thơ của Krishna,
nên các vị phu nhân ở Dwârakâ chẳng ai biết mặt. Các bà
yêu cầu Krishna cho được gặp Râdhâ.
Khi sứ giả của Krishna tới, thấy Râdhâ đương ngồi tham
thiền, đôi mắt nhắm, miệng lẩm bẩm gọi tên Krishna. Nàng
đẹp hiền thục như bông sen trắng nở trong đêm. Khi được
cho hay Krishna muốn mời nàng tới, nàng thoạt khước từ.
Sau v́ muốn làm đẹp ḷng Krishna, nàng ưng thuận. Nàng
trang điểm y như ngày nào cùng Krishna khiêu vũ bên bờ
sông gợn ánh trăng vàng. Tới Dwârakâ, vẻ đẹp rực ràng cao
quư của nàng làm mờ nhạt hết thảy các nhan sắc khác, chẳng
khác mặt trời ló rạng th́ trăng sao tất phải ch́m đi.
Tới lúc chia tay, nàng không muốn đi nữa, Krishna phải an
ủi nàng rằng Krishna là cả thế gian, và cả thế gian ở
trong Krishna, có cái ǵ ngăn cách được hai người đâu.
Mối t́nh chung thủy, thiết tha, cao đẹp đó cũng là tượng
trưng mối t́nh của đấng Chí Tôn hướng về thế nhân, và khát
vọng muôn đời của thế nhân hướng về nguyên lư tối cao
Thượng Đế, Chân-Thiện-Mỹ.
|
|
|
|
|