QUYỂN BỐN
THẦN THOẠI
( Tiếp Theo )
Việt Nam –
Trung Hoa
DOĂN QUỐC SỸ
Sưu tập
BẠCH
MĂ THẦN *
Khi Cao Biền ở trấn nước Nam, giữ phủ xưng vương, đắp
rộng thêm La Thành, đắp xong một buổi trưa đứng ngoài
cửa Đông ngóng xem bỗng nhiên mưa gió ầm ầm, rồi có
một đám mây ngũ sắc tự dưới đất bốc lên, khí sáng ánh
ra tứ phía. Lại thấy có một người ăn mặc đường bệ cưỡi
con cầu long (rồng chưa có sừng) nửa vàng, nửa đỏ, tay
cầm hốt vàng, đứng trong đám mây, có bóng thấp thoáng
lên xuống, lâu th́ tan mất.
Cao Biền lấy làm lạ lùng, nghi là ma quỷ, muốn thiết
đàn cúng cấp, dùng phép trấn áp.
Đêm hôm ấy nằm mơ thấy thần lại bảo rằng :
- Ta là thần chính khí ở đất này, chứ không ma quái
nào. Ta thấy người đắp xong cái thành nên mừng mà hiện
ra đấy thôi !
Cao Biền tỉnh dậy hội các quan lại bảo rằng :
- Ta không trị nổi được xứ này hay sao? Sao mà lắm ma
quỷ hiện ra thế, hoặc là điềm gở ǵ đây chăng?
Chúng xin thiết đàn, bày h́nh tượng thần ấy, rồi dùng
ngh́n cân sắt làm bùa trấn yểm.
Cao Biền nghe lời lập đàn cúng bái, rồi chôn ngh́n cân
sắt để yểm. Hôm sau, trời đất tối tăm mù mịt, mưa gió
ầm ầm, rồi có tiếng sét đánh vào chỗ yểm bùa, sắt tan
vụn bay đi mất cả. Biền thấy vậy sợ hăi, mới lập đền ở
trong phố để thờ thần ấy. Về sau, vua Lư Thái Tổ thiên
đô lên Thăng Long, mơ thấy thần lại mừng. Vua tỉnh dậy,
sai các quan đem lễ đến tế, phong làm Thăng Long Thành
Hoàng Đại Vương.
Bấy giờ vua mở ra chợ cửa Đông, cho dân buôn bán, miếu
thờ ngài ở bên cạnh đường, thường có hoả tai, cháy
ngay cả một dăy phố, chỉ miếu của ngài là không động
ǵ đến. Mỗi khi nhà vua làm lễ nghênh xuân, thường vẫn
cúng trong miếu ấy.
Triều nhà Trần ở phố ấy ba lần có thêm hoả tai mà
không lần nào động đến miếu; và một lần có sét đánh
cũng không việc ǵ.
Thái sư là Trần Quang Khải có đề một bài thơ rằng :
Xưa nghe lừng lẫy tiếng anh linh,
Ma cũng ghê mà quỷ cũng kinh.
Ngựa lửa ba phen thiêu chẳng tới,
Roi lôi một trận đánh không chênh.
Chỉ tay đè nén trăm loài quỷ,
Quát tiếng trừ tan mấy vạn binh.
Nhờ đội oai thần xua giặc Bắc,
Khiến cho non nước lại thanh b́nh.
(Trần
triều phong là : Thuận Dụ Phu Ứng Đại Vương. Đền ở
phường Hà Khấu, huyện Thọ Xương, gọi là đền thần Bạch
Mă, bây giờ tức là đền Bạch Mă ở Hàng Buồm, Hà Nội.)
LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA *
Về đời vua Anh Tông nhà Lê (1557), ở về thôn Vân Cát,
xă Yên Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, có một người
gọi là Lê Thái Công, tiên tổ tích đức đă ba đời, đến
đời Lê Thái Công cũng hay làm phúc. Ngoài bốn mươi
tuổi, sinh được một con trai. Cách năm sau, Thái bà có
mang được vài tháng th́ phải bệnh, ưa những đồ hương
hoa, người nhà cho là ma làm, mời thầy phù thuỷ cúng
cấp mà bệnh lại nặng thêm.
Đến đêm hôm trung thu, có người xin vào chữa bệnh cho
Thái bà. Thái công mời vào, người ấy cầm cái búa ngọc,
lên đàn niệm câu thần chú rồi ném búa xuống đất. Thái
công ngồi cạnh ngă ngay xuống, mơ mơ màng màng thấy có
hai người lực sĩ đưa đi. Đường đi khuất khúc, đến một
nơi nhà vàng cửa ngọc, lực sĩ đưa qua chín từng cửa
rồi đến chốn cung đường th́ dừng lại ở dưới hè. Trông
lên trên, thấy có một vị áo mũ đường hoàng, hai bên
văn vơ cầm hốt đứng chầu, nghi vệ rất thịnh. Sực có
một người con gái mặc áo đỏ, bưng chén ngọc dâng rượu
thọ, lỡ tay rơi chén, sứt mất một góc. Tả ban có một
viên mở ngay sổ ra biên vài chữ, rồi thấy hai người sứ
giả và vài chục người thị nữ xúm lại dắt nàng áo đỏ tự
cửa Nam đi ra. Mé trước có một cái biển vàng, trên có
hai chữ “Sắc Giáng”, giữa có hai chữ “Nam Nam”, c̣n
các khoản dưới th́ mập mờ không rơ.
Thái công hỏi người lực sĩ rằng :
- Đó là việc ǵ thế?
Lực sĩ nói :
- Đây là bà tiên chúa thứ hai tên là Quỳnh Hoa, chuyến
này chắc là phải đầy xuống trần.
Nói đoạn lực sĩ đưa Thái công về đến nhà th́ tỉnh dậy
mà Thái bà đă sinh ra được một người con gái, nhân thế
đặt tên là Giáng Tiên.
Khi nàng Giáng Tiên lớn lên, nhan sắc lạ thường, Thái
công cho ở tĩnh một nhà học hành. Nàng thông minh mà
lại tinh nghề âm nhạc, thường làm ra ca từ bốn mùa,
lựa vào khúc đàn để chơi :
1. Xuân Từ (Điệu Xuân Quang Hảo)
Cảnh như vẽ, khéo ai bày? Hoa đào mỉm miệng liễu dương
mày. Bướm nhởn nhơ bay, oanh vàng líu lo trong bụi, én
đỏ ríu rít trên cây. Buồng xuân d́u dặt mối t́nh ngây,
đề thơ này.
2. Hạ Từ (Điệu Cách Phố Liên)
Trời đất nhiều phần nóng nẫu. Đầu cành rức giọng ve,
băi cỏ vang tiếng chẫu; ṿ vơ Quốc kêu sầu, eo éo Oanh
hót ngẫu. Dường bảo nhau : “Chúa Xuân về rồi thôi cũng
hảo” ! Cảnh sắc nhường kia, ngao ngán cầm ḷng không
đậu. Thần Chúc Dong gẩy một khúc Nam huân, hương sen
thoảng đáo, một trận gió bay, sạch ḷng phiền năo.
3. Thu Từ (Điệu Bộ Bộ Thiềm)
Mặt nước trong veo, nom tự ngọc, gió vàng hây hây khua
khóm trúc. Hoa lau muôn dặm trắng phau phau, cây cối
vẻ hồng pha vẻ lục. Cung thiềm sáng quắc ả Hằng ngủ,
dạo bước thềm giao t́nh rạo rạc. Chi bằng đến dưới dậu
hoa cúc, thảnh thơi dạo đàn gảy một khúc.
4. Đông Từ (Điệu Nhất Tiễn Mai)
Khí đen mờ mịt toả non sông, hồng về Nam xong, nhạn về
Nam xong! Gió Bắc căm căm tuyết mịt mùng. Tựa triện
ngồi trông, tựa triện đứng trông. Sưởi ḷ mặt vẫn giá
như đồng, ngồi chẳng yên ḷng, nằm chẳng yên ḷng! Dậy
xem phong cảnh lúc trời đông. Hoa quên lạnh lùng !
Người quên lạnh lùng !
Một khi Thái công dạo chơi quanh vườn, nghe thấy khúc
đàn ấy, trong bụng buồn rầu, nhân có ông bạn quen họ
Trần, ở cùng một làng, mới cho làm con nuôi ông ấy và
làm riêng một nhà lầu ở sau vườn Trần Công cho con gái
ở.
Cách nhà Trần Công có một nhà quen, tuổi già chưa có
con trai, nhân đêm trăng ra chơi vườn đào, bắt được
đứa con trai ở dưới gốc đào, v́ thế đặt tên là Đào
lang. Đào lang mặt mũi tuấn tú. Trần Công thấy Giáng
Tiên tư chất khác phàm và lại nết na; có ư muốn kết
duyên cho Đào lang. Hai bên cha mẹ thuận ḷng mà hai
người cũng tốt duyên phải lứa, mới gả cho nhau. Từ khi
cưới về, Giáng Tiên một ḷng hiếu thuận. Năm sau, sinh
được một mụn con trai, cửa nhà thêm vui vẻ.
Ngày tháng thấm thoắt, chợt đă ba năm. Hôm mùng ba
tháng ba, Giáng Tiên tự nhiên vô bệnh mà mất, bấy giờ
mới hai mươi mốt tuổi. Ba nhà sầu thảm vô cùng.
Thái bà đau xót đêm ngày khóc lóc. Một bữa đang khóc
th́ thấy con về ôm lấy mẹ mà nói rằng :
- Mẹ ơi! Con ở đây, mẹ khóc ǵ thế.
Thái bà mở choàng mắt ra trông quả là con, cả nhà xúm
lại hỏi han.
Tiên chúa nói rằng:
- Con là đệ nhị tiên cung, phải đày xuống trần, nay đă
hết hạn, lại phải lên chầu Thượng đế. Cha mẹ có âm
công đă vào sổ tiên, mai sau cũng được đoàn tụ, không
can ǵ phải lo sầu.
Nói đoạn th́ biến mất.
Chàng Đào lang từ khi uyên bay, trăm phần sầu năo. Một
đêm đang ngồi ngâm thơ giải phiền, sực thấy tiên chúa
đến, chàng bèn níu lấy, kể lể nỗi ḷng sầu khổ. Tiên
chúa khuyên giải hết điều rồi lại biến mất.
Từ bấy giờ đi mây về gió, chơi xem phong cảnh khắp
cảnh khắp nơi. Một hôm đến tỉnh Lạng Sơn, trông thấy
có một ngôi chùa trên núi, mới lên xem cảnh rồi ra
nghỉ mát dưới gốc cây thông, gảy đàn ngâm hát. Xảy có
Phùng Khắc Khoan (Trạng Bùng) đi sứ về qua, hai bên
đối đáp với nhau. Sau đó Phùng Công xuất tiền cho dân
sửa sang chùa ấy.
Lại khi Phùng Công lên chơi Hồ Tây, cũng gặp tiên chúa
xướng hoạ liên ngâm với nhau. Về sau tiên chúa hiển
thánh ở Đèo Ngang, Phố Cát, tỉnh Thanh Hoá, hiện ra
làm con gái bán nước, những kẻ đùa bỡn chết hại rất
nhiều. Triều đ́nh nghi là yêu quái sai thầy phù thuỷ
và Trịnh Hoàng Thúc đem quân đi tiễu. Quan quân bắn
vào trong núi, tàn phá đền đài. Được vài tháng dân sứ
bị dịch tễ, lập đàn cầu khẩn mới hay là tiên chúa hiển
thánh. Tâu lên triều đ́nh, vua sai sửa sang lại đền
miếu, phong làm Mă vàng công chúa. Sau lại có công
giúp nước phá giặc Man, được phong làm “Chế Thắng Bảo
Hoà Điệu Đại Vương” lập đền trên núi Sùng sơn đến giờ
vẫn c̣n anh linh.
PHỤ CHÚ :
Sách Nam Hải Dị Nhân của Phan Kế Bính, chương VI liệt
kể sự tích tám vị thần linh ứng là: Chử Đồng Tử, Phù
Đổng Thiên Vương, Tản Viên sơn thần, Lư Hiệu Uư, Tô
Lịch giang thần, Bạch Mă thần, Sóc Thiên Vương, Liễu
Hạnh công chúa. Cứ theo sách này của Phan Kế Bính th́
Sóc Thiên Vương là thần Côn sa môn.
Nhưng theo Lĩnh Nam Chích Quái, truyện Sóc Thiên Vương
(bản dịch Lê Hữu Mục, tr.103), và Việt Điện U Linh
Tập, “Bài kư sự tích Sóc Thiên Vương” và lời “Tiếm
b́nh” (bản dịch Lê Hữu Mục, tr.123-23) th́ Phù Đổng
Thiên Vương và Sóc Thiên Vương là một.
Truyền thuyết trong dân gian liệt vào tứ bất tử là bốn
vị sau đây:
- Chử Đồng Tử
- Phù Đổng Thiên Vương
- Tản Viên Sơn Thần
- Liễu Hạnh công chúa
Chính v́ lư do này mà soạn giả tập trung cả bốn truyện
trên vào tập Thần Thoại này.
C̣n hai truyện “Từ Thức” và “Tú Uyên” sau đây tác giả
Nam Hải Dị Nhân xếp vào chương VII “Các vị tiên tích”.
Cũng xin sao lục vào tập này, đặc biệt là truyện “Từ
Thức”, để tiện việc so sánh với một truyện trong thần
thoại Nhật Bản sau này.
(*) Theo Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân
TỪ THỨC *
Từ Thức người ở Hoá Châu (Thanh Hoá). Trong thời Quang
Thái, đời vua Thánh Tông nhà Trần, nhân có chân ấm
sinh, được làm tri huyện Tiên Du (Bắc Ninh). Cạnh
huyện có ngôi chùa to, trong chùa có một cây mẫu đơn,
mỗi khi mùa xuân hoa nở khách bốn phương đến chùa xem
hoa đông như hội, nhân thế gọi là hội xem hoa.
Tháng hai năm Đinh Tỵ (1369), chính giữa hôm hội, có
một nàng nhan sắc mỹ miều, mới độ mười lăm, mười sáu
tuổi, son phấn điểm nhạt, mặt mũi tươi ḍn, đến xem
hoa, lỡ tay vịn găy mất một cành, bị bắt giữ lại. Từ
Thức xảy đi qua trông thấy, hỏi cơn cớ đầu đuôi, rồi
cởi áo cẩm bào chuộc cho nàng ấy đi.
Từ bấy giờ ai cũng khen là quan huyện nhân đức, nhưng
chỉ v́ tính hay uống rượu ngâm thơ, việc quan bỏ đọng
lại, lắm phen bị quan trên quở mắng.
Từ Thức bèn treo ấn từ quan rồi đi. Tính Từ Thức ưa
chơi những chốn khe đỗng trong huyện Tống Sơn, mới về
làm nhà ở huyện ấy, mỗi khi nhàn đi chơi, sai một
thằng nhỏ đeo một bầu rượu, cắp một cái đàn và mang
một quyển thơ. Đi đến chỗ nào thích ư, th́ ngồi chơi
đánh chén mà gảy đàn. Phàm chỗ nào có nước non lạ
lùng, như núi Chính Trợ, động Lục Vân, sông Lăi, cửa
Nga, th́ tất t́m đến chơi và có thơ đề vịnh.
Một khi dậy sớm, trông ra cửa Thần Phù, cách vài mươi
dặm, có khí mây năm vẻ kết lại như h́nh cái hoa sen,
mới sai bơi thuyền đến tận chỗ ấy, th́ thấy có núi rất
đẹp. Đỗ thuyền trèo lên núi th́ thấy khí núi xanh
biếc, cao ṿi vọi ước ngh́n trượng.
Nhân đề mục bài thơ rằng :
Đầu cành thấp thoáng bóng kim ô,
Hoa đỗng vui mừng đón khách vô.
Cạnh suối nào là người hái thuốc ?
Quanh nguồn chỉ có gă bơi đ̣.
Xênh xang ghế mát cầm ba khúc,
Đủng đỉnh thuyền câu rượu một ṿ.
Ướm hỏi Vơ Lăng chàng đánh cá,
Làng Đào đâu đó cách chừng mo?â.
Đề xong bài thơ, nh́n xem phong cảnh một hồi, bỗng
thấy trong sườn núi đá, có một cái hang, cửa hang tṛn
và rộng độ một trượng. Thử vào hang xem ra làm sao,
vừa đi được vài bước th́ cửa hang bỗng dưng đóng xập
lại, trong hang tối mù mịt, không c̣n biết đường nào
mà đi. Từ Thức chắc là chết ở chỗ ấy, nhưng cũng cứ đi
liều xem ra làm sao, mới quờ tay sờ sệt vào tường đá
mà đi. Trước c̣n loanh quanh đi trong khe nhỏ, dần dà
thấy có bóng sáng, trông lên thấy núi cao chót vót, đá
mọc lởm chởm, mới cố leo vịn lên, th́ đường đi đă hơi
rộng.
Khi lên đến đỉnh núi, th́ lại thấy mặt trời sáng sủa,
trông ra bốn bề cùng có lâu đài cung điện, cửa nhà
trang hoàng, cây cối tươi tốt, tựa hồ một cảnh chùa
chiền.
Từ Thức lấy làm lạ lùng, ngắm nh́n phong cảnh, rồi
thấy hai ả con gái nhỏ, mặc áo xanh bảo nhau rằng :
- Chú rể mới nhà ta đă đến kia ḱa.
Nói thế, đoạn trở vào trong nhà báo tin, rồi lại ra
báo với Từ Thức rằng:
- Phu nhân cho chúng tôi ra mời người vào chơi.
Từ Thức theo hai người con gái đi vào, qua một dăy
tường gấm, vào cửa sơn son, thấy đôi bên cung cấm,
vàng bạc sáng quắc, có chữ đề rằng: “QUỲNH HƯ CHI ĐIỆN
– GIAO QUAN CHI CÁC”.
Khi trèo lên gác th́ thấy một bà tiên mặc áo lụa
trắng, ngồi trên giường thất bảo, cạnh giường có đôi
kỷ gỗ đàn hương, bà tiên mời Từ Thức ngồi trên kỷ và
bảo rằng:
- Ngươi vốn hay chơi cảnh lạ, có biết đây là chốn nào
không?
Từ Thức thưa:
- Tôi tuy dong chơi giang hồ đă nhiều, nhưng không
biết ở đây là tiên cảnh, xin bảo cho tôi được rơ.
Bà tiên cười nói rằng :
- Người biết đâu được chốn này. Đây tức là hang thứ
sáu trong ba mươi sáu đỗng núi Phi Lai. Núi ấy đi khắp
các mặt bể, chân không bén đến đất, chỉ theo chiều gió
mà hợp tan thôi. Ta tức là Địa tiên núi Nam Nhạc, gọi
là Nguỵ phu nhân đây. V́ thấy ngươi có cao nghĩa cho
nên mới đón đến chơi.
Nhân bảo con hầu gọi một người con gái ra. Từ Thức
trông ra th́ chính là người con gái đánh găy cành hoa
mẫu đơn khi trước.
Bà tiên trỏ vào người con gái bảo với Từ Thức rằng :
- Con em, tên nó là Giáng Hương, khi trước xem hoa gặp
ách nạn, nhờ ngươi cứu cho, ta vẫn c̣n hàm cái ân ấy,
nay cho nó muốn kết duyên với ngươi để báo ân.
Lập tức đêm hôm ấy truyền sai đốt đèn mỡ phụng, giải
chiếu vẩy rồng, cho làm lễ thành thân.
Hôm sau các tiên đến ăn mừng, kẻ cưỡi li vàng (tựa
rồng mà không sừng), người cưỡi câu đỏ (loài rồng) đến
hội. Bà tiên mở tiệc trên gác Giao Quang, nào là rèm
ngọc, trướng điều, nào là đệm hoa ghế bạc. Các tiên
ngồi riêng một bên tả, c̣n mé hữu th́ Từ Thức ngồi.
Trong khi ăn yến, đủ thứ sơn hào hải vị, chả phụng nem
công, thơm tho ngào ngạt, toàn những vị dưới trần
không có bao giờ. Lại có đàn sáo bát âm rất là vui vẻ.
Chiều tối tiệc tan, các tiên đâu về đấy. Từ Thức ở lại
đấy được một năm, có ư nhớ nhà, nên một khi thong thả
bảo với nàng Giáng Hương rằng :
- Tôi vốn đi chơi xa xôi đă lâu, khó đè nén được bụng
trần, lại tưởng nhớ đến quê cũ, xin cho tôi hăy về
thăm nhà một chút.
Giáng Hương có ư ngần ngừ không nỡ ly biệt.
Từ Thức lại nói rằng :
- Cho tôi về chơi ít ngày tháng, bảo với anh em cho
biết, rồi sẽ lại lên đây.
Giáng Hương khóc mà nói rằng:
- Thiếp không dám vị t́nh vợ chồng mà ngăn trở bụng
quân tử, chỉ v́ cơi trần bé nhỏ, ngày tháng ít oi, nếu
có về chăng nữa, chỉ sợ cây cối cửa nhà không được c̣n
như trước nữa đâu.
Nàng ấy nói với phu nhân. Phu nhân than rằng :
- Không ngờ gă ấy c̣n vương víu trong đám bụi hồng,
làm chi mà phải ngậm ngùi như thế?
Phu nhahn mới cho một cỗ xe cẩm vân, sai ngồi lên xe
ấy mà về. Giáng Hương cũng viết một phong thư buộc kỹ
đưa cho, giặn về nhà hăy mở ra coi.
Từ Thức cáo biệt, ngồi lên trên xe, đi vừa chớp mắt đă
đến nhà. Về đến nơi nh́n xem phong cảnh quả khác xưa,
nhân dân thành quách, không có ǵ là giống khi trước,
duy hai bên khe núi th́ vẫn c̣n nguyên.
Từ Thức đem họ tên ḿnh, hỏi thăm các cụ già trong
làng, th́ có một người nói rằng :
- Tôi từ lúc c̣n nhỏ, có nghe cụ tổ ba đời nhà tôi
cũng tên họ như thế, sa vào hang núi đă hơn tám mươi
năm nay rồi.
Từ Thức buồn rầu lắm, muốn lại ngồi xe đi lên th́ xe
đă hoá làm chim loan bay mất rồi. Mở bức thư ra xem,
có câu rằng : “Trong mây kết bạn loan hoàng, duyên xưa
đă hết, trên bể t́m người tiên tử, hội khác khôn cầu”
mới biết là lời ly biệt. Về sau, Từ Thức mặc áo khinh
cừu, đội cái nón nhỏ, vào núi Hoàng Sơn ở huyện Nông
Cống (Thanh Hoá), không biết lên tiên hay là đi mất.
TÚ UYÊN
Thời nhà Lê, ở làng Bích Câu (tức là làng Yên Trạch
bây giờ, Hà Nội), có một người học tṛ tên là Tú Uyên,
vốn người tài mạo, cha mẹ mất sớm, nhà nghèo, chỉ chăm
việc học hành.
Có một hôm chùa Ngọc Hồ mở hội, Tú Uyên đi xem, đến
chiều trở về qua chùa Tiên Tích (ở phố cửa Nam) trông
thấy một người con gái đẹp lắm, đang đứng ở dưới gốc
cây đa. Tú Uyên lại gần hỏi chuyện, rồi hai người vừa
đi vừa đối đáp với nhau, đến chỗ đ́nh Quang Minh th́
người con gái ấy biến mất, mới biết là tiên.
Tú Uyên đứng ngẩn ra một lúc mới trở về nhà. Từ đấy
đêm ngày tưởng nhớ, phải bệnh tương tư, thuốc nào chữa
cũng không khỏi. Một hôm nhớ đến sự bói thẻ, mới đến
đền Bạch mă xin thẻ, rồi nằm mộng ở đấy. Đêm thần báo
mộng rằng : “Sáng sớm mai, ra cổng cầu Đông sông Tô
Lịch th́ gặp”.
Tú Uyên mừng lắm, sực tỉnh dậy th́ trời đă rạng đông;
vội vàng chạy ra đấy, đứng thơ thẩn độ vài giờ không
thấy ǵ, toan trở về, th́ gặp một ông cụ bán bức
tranh. Tú Uyên cầm mở ra xem, thấy người tố nữ vẽ
trong tranh, giống như người gặp khi trước, bèn mua
đem về, treo ở cạnh buồng học, từ bấy giờ mới đỡ ưu
phiền.
Tú Uyên mỗi khi đến bữa cơm ăn lại đặt hai cái bát,
hai đôi đũa mời người tố nữ trong tranh như hai vợ
chồng thực. Một hôm mời , th́ h́nh như tủm tỉm cười
muốn nói. Hôm sau đi học về, thấy mâm cơm dọn sẵn,
nghĩ không biết thế nào, ăn th́ toàn những mùi ngon
vật lạ cả. Hai ba hôm cùng luôn như thế. Bữa sau giả
cách đi học, đứng ŕnh ḍm vào trong nhà, thấy người
trong tranh hiện ra đang điểm trang. Tú Uyên rón rén
bước vào hỏi rằng :
- Duyên sự làm sao, xin nói cho tôi được biết.
Nàng rằng :
- Thiếp ở trên cung tiên tên là Giáng Kiều, v́ nhà
chàng có phúc đức lớn nên gặp nhau từ khi ấy. Sau lại
thấy chàng thương nhớ cho nên chúa tiên cho phép xuống
kết duyên với chàng.
Nói vừa xong rút trâm mái đầu, hoá phép hiện ra cửa
nhà, lâu đài, đầy tớ, đồ đạc, rồi làm cỗ bàn mời các
bạn tiên xuống ăn cưới. Từ đấy kết duyên làm vợ chồng.
Tú Uyên tự bấy giờ ham mê về tửu sắc, cả ngày chỉ uống
rượu say sưa, bỏ sự học hành. Trong ba năm trời, Giáng
Kiều khuyên ngăn măi mà không nghe. Mỗi khi say rượu
rồi th́ lại có hành động lời lẽ vũ phu. Giáng Kiều
giận lắm mới biến đi. Tú Uyên tỉnh rượu, thấy vợ bỏ
ḿnh mà đi mới hối lại, biết là lỗi tại ḿnh. Đi t́m
đâu cũng không thấy, bực ḿnh muốn tự vẫn. Bỗng thấy
nàng ở đâu lại về. Tú Uyên nửa mừng, nửa thẹn, lấy lời
từ tạ, hai vợ chồng lại vui vẻ chung sống như xưa.
Không bao lâu sinh được người con trai đặt tên là Trân
Nhi. Đến sau con học hành thông minh, đă sắp nên
người, Giáng Kiều bảo với chồng rằng :
- Ở hạ giới này, một đời người chỉ được có bảy, tám
mươi tuổi mà thôi, kể ra không được là bao nhiêu. Vả
lại trong sổ tiên cũng có tên chàng, chi bằng chúng ta
sớm đưa nhau lên cung tiên là hơn.
Liền đưa cho Tú Uyên một viên thuốc và một đạo bùa.
Một lát th́ có hai con hạc xuống đón, hai vợ chồng mỗi
người cưỡi một con, ngoảnh lại dặn con rằng :
- Con hăy ở đây, bao giờ thi đỗ th́ ta xuống đón.
Nói đoạn bay cả lên trời.
Dân làng nhân thấy thế lập miếu ngay chỗ nhà cũ để thờ
gọi là đền Tú Uyên.
(*) Theo Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân
THẦN THOẠI MƯỜNG *
(*)Tất cả những thần thoại của đồng bào miền núi,
chúng tôi đều theo bản văng của Hoàng Trọng Miên (sách
đă dẫn)
TRUYỆN TRĂM TRỨNG
Mặt đất vào thời kỳ ấy chưa có dấu vết loài người. Một
ngày kia có một cây si to lớn mọc trên núi cao bị băo
đổ xuống, trong đó bay ra một đôi chim lớn. Đôi chim
đẻ ra một trăm trứng, trong số có ba cái lớn dị
thường. Đẻ xong, đôi chim biến thành người, gọi tên là
AY và UA, tức là hai con người đầu tiên ở trên mặt
đất. Được hai bà tiên chỉ cho cách ấp trứng, năm mươi
ngày sau, chín mươi bảy quả trứng nở ra thành người :
năm mươi người về đồng bằng thành người kinh, c̣n bốn
mươi bảy người ở mạn ngược, về sau thành tổ tiên các
giống dân Mường, Mán, Mèo, Thổ … Đợi đủ một trăm ngày,
ba cái trứng lớn c̣n lại nở ra thành người thứ nhất là
Lang-Đại-Ca, người thứ hai là Lang-Đa-Cần, người thứ
bà là nàng Nường-Kịt.
DIỆT HOA TINH
Trong số trứng nở, dân Mường sinh ra trước tiên, toàn
ăn trái cây, đêm t́m hang đá mà ngủ nhưng họ vẫn làm
mồi cho ác thú, đất đai bỏ hoang, họ không biết dùng
lửa, sống rất kham khổ. Họ bèn cử người tới xin ba anh
em cử người về cầm đầu trong xứ. Lang-Đa-Cần nhường
anh là Lang-Đại-Ca về làm thủ lănh dân Mường, nhưng
Lang-Đại-Ca đi được nửa đường th́ bị con yêu Hoa-tinh
đón ăn thịt.
Lần này Lang-Đa-Cần nhận lời làm thủ lănh đặt ra công
ước đầu tiên cho dân Mường, quy định những liên hệ
giữa người lănh đạo và chức Quan Lang được đặt ra từ
đó, lấy tộc danh của Lang-Đa-Cần làm tên gọi.
Nhờ có sự trợ giúp đắc lực của một thầy mo* cao tay,
Lang-Đa-Cần đánh bại được con yêu Hoa-Tinh, nó bị đánh
gẫy hai chân, thân h́nh thu nhỏ lại như một khúc tre.
Diệt xong Hoa-Tinh, Lang-Đa-Cần nhờ Đá-Cẩm-Cót dạy dân
cách làm ra lửa nấu nướng đồ ăn. Nh́n một con rùa đứng
lên trên bốn cẳng trông như bốn cây cột, mu rùa trở
thành mái nhà và các vẩy rùa là những mái lợp,
Lang-Đa-Cần chỉ bảo dân Mường cách cất nhà ở.
(*) Có phải đây là một danh từ gốc Mă lai? V́ gười
Mă-lai ngày nay c̣n gọi các pháp sư của họ là bomob.
BỐN HỌ ĐINH, QUÁCH, BẠCH, HÀ
Lang-Đa-Cần không có cánh để bay lên trời mà lấy nàng
Sáng (Ánh sáng) con gái bà Sao (ngôi sao). Một lần
khác Lang-Đa-Cần gặp con gái thần Nước, yêu cầu cô gái
theo ḿnh làm vợ nhưng th́nh ĺnh nàng biến mất; sau
cùng Lang-Đa-Cần đành lấy em gái là nàng Nường-Kịt,
song những đứa con đẻ ra đều hữu sinh vô dưỡng. Hai
anh em phải dời nhau, Lang-Đa-Cần lấy người vợ thứ là
Bà Chu Bà Chuông mới có được chín người con trai và
chín người con gái, người con cả nối nghiệp cha, c̣n
tám anh em trai lập thành bốn họ lớn : Đinh, Quách,
Bạch, Hà.
TRUYỆN CÂY CHU ĐỒNG
Lang-Đa-Cần chết, con là Rịt-Ràng lên thay cha.
Rịt-Ràng theo lời thần Kem-Ca sai bộ hạ là hai anh em
Da-Đan và Da-Đét phải đi hướng Tây kiếm cho kỳ được
cây Chu-Đồng* đem về cất cung điện.
Da-Đan và Da-Đét lên đường đi qua bao nhiêu nơi, khi
tới xóm Chè (làng Văn Lang), hai anh em gặp nhiều cô
gái thường dân, ngỏ lời hỏi thăm :
- Nơi đây ao sâu chắc nhiều ốc, sông trong chắc nhiều
cá, rừng cây tươi tốt chắc nhiều nai, cây cỏ tốt tươi
như kia, chẳng hay có cây nào là cây Chu-Đồng không?
Đáp :
- Ao chúng tôi tuy sâu mà không có ốc, sông tuy trong
mà ít cá, rừng xanh mà kiếm không ra nai, cây cỏ tươi
tốt nhưng chẳng có cây Chu Đồng nào cả.
Da-Đan và Da-Đét lại lên đường qua nhiều nơi lắm. Tới
một nơi kia (làng Thiết-ung, Thanh hóa ngày nay) trời
vừa tối, hai anh em nghỉ lại, hừng sáng nghe tiếng súc
vật kêu họp bầy xung quanh cây Chu-Đồng. Hai anh em
được trông thấy cây Chu-Đồng nguy nga rực rỡ như ṭa
cung điện.
Thấy hai người lại gần, cây Chu-Đồng mới hỏi:
- Ai đưa hai người tới đây? Tại sao lại mang khiên mộc
với cung tên, sao lại đeo chuông?
- Hai anh em chúng tôi tuân lệnh truyền của vua
Rịt-Ràng, đi kiếm cây Chu-Đồng, chặt đem về dâng vua.
- Thế hai anh em nhà ngươi có hoa sinh cá, lá sinh cơm
không?
- Anh em chúng tôi làm sao có được!
Cây Chu-Đồng mới bảo sẽ tặng hai anh em thứ hoa lá kỳ
lạ đó miễn là khi về đừng cho nhà vua hay là đă t́m
thấy cây Chu-Đồng. Nếu hai anh em không giữ lời th́
cùng phải chết theo cây Chu-Đồng.
Da-Đan và Da-Đét về thoạt kín miệng, nhưng sau hai
người lại tiết lộ cho vợ nghe. Vua Rịt-Ràng vẫn cho kẻ
tâm phúc theo rơi, ŕnh nghe được sự thực, bèn mở một
cuộc lễ mười ngày, mời tất cả mọi người tới dự. Giữa
các bữa tiệc, lệnh truyền rao ai về có câu chuyện ǵ
hay, tha hồ kể ra. Vào lúc chuếnh choáng hơi men,
Da-Đan và Da-Đét móc túi lấy ra hai bảo vật khoe. Vua
Rịt-Ràng liền ra lệnh cho mọi người theo nhà vua đến
nơi có cây Chu-Đồng, c̣n hai anh em Da-Đan và Da-Đét
phải dẫn đường. Tới nơi, thổ-ty** và dân làng đem
rượu, thịt, xôi ra dân Rịt-Ràng. Nhưng qua chín đêm
mười ngày mười ta đốn măi mà không được. Một vị thày
Mo được vời đến cho biết chỉ có hai anh em Da-Đan và
Da-Đét là có thể thành công. Hai người bị ép buộc phải
hạ cây thần, dùng ŕu đẵn trong 15 ngày cây gần đổ,
linh tính bỗng báo tai họa đến nơi, hai anh em liền
nhảy lên ngựa định chạy trốn; nhưng ngựa cứ chạy quanh
thân cây cho tới lúc cây đổ nhào xuống, đè chết cả hai
anh em. Rịt-Ràng truyền chặt ngọn, đem thân cây về,
nhưng bốn năm ngàn dân xúm lại mà không lay chuyển
nổi. Một vị thuật sĩ được mời đến cho hay rằng muốn
chở khúc cây khổng lồ ấy, chỉ có xương hai anh em
Da-Đan và Da-Đét dùng làm bánh xe th́ mới trục cây đem
về tới nơi được. Khi nghe theo quả nhiên việc chuyên
chở thân cây trở nên dễ dàng***.
Khi cung điện được cất xong, vua Rịt-Ràng khánh thành
cho toàn dân được ăn uống no say.
(*) Tức là cây dầu-đa to lớn, cưa ra sắc đỏ như đồng
(**) Thổ-ty là trưởng quan thế tập của các người
Mường, Mán miền thượng du
(***)Những chi tiết vừa hồi hộp, vừa bi hùng, vừa hợp
lư một cách .. “thần thoại”, nâng cao giá trị câu
chuyện biết là chừng nào.
TRUYỆN CÂY SONG KHỔNG LỒ
Trong bữa tiệc khánh thành đăi toàn dân no say, vua
Rịt-Ràng lại quên không mời Khao-Che và Giê-Chông, con
của Da-Đan và Da-Đét. Hai anh em tức giận lấy cẳng
trâu đập vỡ tan cái cổng đồng của vua Rịt-Ràng. Nhà
vua tức giận sai người đi bắt. Khao-Che và Giê-Chông
chạy trốn vào rừng toan tụ tập dấy loạn. Nhà vua hối
hận sai người đi phủ dụ Khao-Che và Giê-Chông trở về,
sẽ ban cho ruộng đất, rừng cây, nhà cửa. Nhưng khi
quay về hai anh em chẳng nhận được ǵ, tức giận, bàn
nhau bắt một con mèo, tẩm dầu vào giẻ buộc đằng đuôi,
rồi đốt cháy. Con mèo bị lửa chạy lên nóc cung điện,
cả lâu đài nguy nga đều làm mồi cho lửa. Biết được họa
này là do Khao-Che và Giê-Chông gây ra, Vua Rịt-Ràng
truyền lệnh bắt họ. Hai anh em chạy thoát vào rừng
nhưng bị rượt đuổi gấp, sực nhớ cha họ chết đi có để
lại một hột giống quư gọi là Long Lai Cai Long Cham.
Hai người vội gieo hạt giống xuống đất, quỳ khấn khứa
: “Bố ơi, hồn bố có linh thiêng, xin cho hạt giống này
trổ ngay ra một cây song quật chết đoàn quân của
Rịt-Ràng”. Khấn xong, tự hạt giống vừa lấp dưới đất
vụt mọc lên một cây song dài không biết bao nhiêu
trượng, rộng cả bốn ôm. Thấy đoàn quân của vua
Rịt-Ràng tới nơi, cây song khổng lồ quật vút xuống, ầm
một cái, nháy mắt đập chết tươi 1.100 người, rồi quét
sà mặt đất, quật chết thêm 1.050 người nữa. Trước tai
biến ấy, viên tướng cầm đầu đoàn quân của Rịt-Ràng bèn
ra lệnh cho Lâm-Lâm và Len-Len tức con trai của
Khao-Che và Giê-Chông, cháu nội của của Da-Đan và
Da-Đét, phải dùng dao chặt đứt cây song ra làm đôi.
Chặt đến đâu máu chảy tới đó, máu đen tuôn ra biến
thành gà rừng, máu đỏ hóa thành hươu nai, máu vàng
sinh ra con cọp Mông-Ty-Vy-Tượng-Vương.
TRUYỆN MÔNG-TY-VY-TƯỢNG-VƯƠNG
Lúc c̣n trẻ cọp Mông-Ty-Vy-Tượng-Vương chỉ ăn cua ăn
ốc, nhưng càng lớn lên nó đâm ra ăn gà, heo, ḅ, trâu,
đến khi lớn bằng núi đá, nó bắt cả người để ăn thịt,
đi tới đâu, hoành hành gieo họa khủng khiếp tới đó.
Vua Rịt-Ràng liền đem quân đi giết cọp, truyện lệnh
cho hai anh em Ban-Xan và Bông-Xông (con của Lâm-Lâm
và Len-Len; cháu của Khao-Che và Giê-Chông; chắt của
Da-Đan và Da-Đét) đi ḍ la đích xác địa điểm của con
ác thú đang nằm ngủ. Tới Lao-Cai, hai người nh́n thấy
một con cọp lớn bằng một ḥn núi đá, vú cọp lớn như
đụn rạ.
Ban-Xan và Bông-Xông quay về tâu tŕnh với nhà vua.
Sang hôm sau, vua Rịt-Ràng xua quân tấn công con mănh
thú. Hai anh em Ban-Xan và Bông-Xông vác dao, cầm nỏ,
bắn trúng con thú bị thương trước tiên. Con vật chồm
dậy gầm lên như sấm sét, cong đuôi chạy trốn từ
Cun-Khương xuống tới Mường-Sên (làng Mân-Dục), qua một
con đường độc đạo, mắc kẹt giữa khe đá. Quân vua
Rịt-Ràng đuổi theo sát, Ban-Xan và Bông-Xông c̣n đâm
trúng ḿnh cọp trên một trăm vết thương nữa. Cọp dùng
tàn lực cuối cùng vùng thoát khỏi kẹt đá, vuốt cọp c̣n
in vết trên đỉnh núi. Ác thú lết thẳng xuống băi
Đồng-Chuông (làng Tuần Lê) và trong lúc giẫy giụa
trước khi chết, nó cào đất đào thành một cái ao lớn
ngày nay hăy c̣n.
Cọp chết rồi người Lào mới bắt chước bộ lông rằn-rện
của nó làm kiểu mẫu dệt nên những tấm vải rất đẹp gọi
là Phạ-Lào. Người Mường đến sau, mặc dầu ở gần đấy
hơn, nh́n thấy bộ lông cũng học kiểu để dệt, nhưng
không được đẹp bằng.
Sau khi mọi người đă lấy kiểu xong, vua Rịt-Ràng cho
xẻo thịt cọp ra làm 2.150 miếng tại Băi-Chuông, do đó
ngày nay người ta c̣n thấy nơi đây đầy rẫy những tảng
đất trông tựa những mảng thịt cọp. Khi chia phần thịt
cọp, dân Xóm-Cho (làng Tuần-Lê) ở ngay đấy đinh ninh
thế nào cũng có phần, nhưng đến nơi vào lúc vua
Rịt-Ràng đă lui quân, chỉ c̣n thấy bỏ xó những nồi đất
đă nấu thịt cọp. Đang đói lại tham ăn, dân Xóm-Cho bèn
liếm nồi, v́ thế mà môi họ và đầu mũi đều bị nhọ nồi
đen thui. Cho tới ngày nay, con cháu họ vẫn c̣n những
vết nhọ trên mũi trên môi như vậy.
PHỤ CHÚ:
Thần thoại tiểu sử Mường có những nét hao hao song
song với thần thoại Việt :
ở Vĩ tích diệt Hoa-tinh của Lang-Đa-Cần làm ta liên
tưởng đến vĩ tích diệt Mộc-tinh của Lạc-Long-Quân.
ở Lời Khao-Che và Giê-Chông khấn khi gieo hạt giống :
“Bố ơi, hồn bố có linh thiêng xin cho hạt giống này
trổ ngay ra một cây song vật chết đoàn quân của
Rịt-Ràng” làm ta liên tưởng đến thần thoại Việt mỗi
khi người dân gặp tai ương lại kêu khấn Lạc-Long-Quân
“Bố ơi đâu sao không về cứu chúng con!”
ở H́nh ảnh cây song vút xuống một lần làm chết 1.100
người làm ta liên tưởng đến nỏ thần của Thục
An-Dương-Vương.
ở Cây Chu-Đồng trong thần thoại Mường cũng thấy có ở
ca dao Việt nam :
Cây chu đồng không giồng mà mọc
Rễ chu đồng rễ dọc rễ ngang.
(Chu đồng chứ không phải ngô đồng là bắt chước
Trung-hoa).
Về sự tích cây chu đồng, ông Quách-Điều trong một bài
báo Nam Phong có ghi một truyền thuyết khác là : “Quao
lang khởi tổ từ cuối thời nước ta c̣n mang quốc hiệu
Văn lang gồm sáu họ Đinh, Quách, Bạch, Hà, Xa, Cao,
đều là những con thứ được nhà vua chia đất phong cho
tại những nơi có rừng, thung lũng lớn để mở mang ruộng
vườn, chiêu dân lập ấp, rồi hoặc tới kỳ th́ về kinh đô
Phong Châu chầu Vua, hoặc đem của hiếm vật lạ dâng
Vua. Đời Thục An-Dương-Vương đem quân đi chặt cây chu
đồng ở đất Mường-ai, Mường-ống (làng Ái-thượng, Ái-hạ,
Thiết-ung, thuộc Thanh-hóa) lấy về dựng làm cung đài
và Chùa Đồng. Hiện sở tại c̣n dấu vết gốc cây ở trên
đỉnh núi, và Chùa Đồng ở núi Tam-đảo là dựng từ lúc
ấy”.
C̣n về con Muông Ty Vy Tượng Vương, vẫn trong bài báo
trên, ông Quách Điều cũng ghi một truyền thuyết khác :
“Chiếu Vua ra hội họp các quan lang cùng đi săn đuổi
bắn được con muông tượng vương lớn bèn ban thưởng chia
cho ăn thịt cùng da lốt. Tương truyền h́nh dạng con
muông tượng vương như con hổ; hiện ở làng Quy-Hậu c̣n
một vết chân nó vồ lơm vào vườn núi đá ăn sâu hơn 50
phân bề rộng ước sáu bảy thước, và ở làng Mỹ-ḥa có
một vực rất sâu và rộng ước độ bốn năm mẫu : khi bị
bắn, nó ngă vật xuống thành vực như vậy; xung quanh đó
có một băi cỏ rộng mênh mông đều đều cứ cách độ mười
thước lại có một nấm đất nhỏ nổi lên nguyên do v́ khi
chia nhau thịt được đánh từng phần, khi lấy thịt rồi,
mỡ c̣n lại ngấm xuống đất, mối đùn lên thành nấm đến
nay vẫn c̣n*
Sau đây đến truyện “Đạo Kha và Cây Trường Sinh”, như
truyện “Thằng Cuội” trong thần thoại Việt Nam. Quả
thật là t́nh trạng thần thoại thoạt cùng một gốc mà
sau chia làm đôi nơi.
(*) Xin đọc : Quách Điểu, “Hoa-B́nh Quan Lang-Sử
Lược”, Nam Phong tạp chí, số 100
(Nov.19,25)-tr-355-56.
ĐẠO KHA VÀ CÂY TRƯỜNG SINH
Đạo Kha có tài săn bắn, một hôm nhắm bắn một đàn nai,
hai con bị trọng thương nằm răy rụa, một con cố lết
tới một gốc cây mọc gần bờ suối. Nghĩ rằng con thú
rừng bị tên t́m nước uống trước khi chết, Đạo Kha đứng
yên nh́n theo th́ thấy con nai vươn mơm ngoạm lấy một
ít lá cây nhai nuốt, chỉ chốc lát lồm cồm đứng lên
được, vết thương bên hông cầm hẳn máu chảy, cái chân
què lành lặn như thường. Nó ngoạm thêm một nắm lá cây,
nhai nhai đem đến nhả vào mồm con nai nằm chết trên
vũng máu. Chỉ một lát sau, con thú đă chết cứng bắt
đầu thở ph́ phào, lắc lư đầu, cử động bốn chân, từ từ
đứng lên, ngoe nguẩy cái đuôi ngắn rồi tất cả theo vào
rừng.
Đạo Kha sững sờ kinh ngạc chạy đến gốc cây cải tử hoàn
sinh, tuốt lấy một nắm lá, bẻ luôn cả cành con, lấy
dao rạch vào thân cây ghi dấu, rồi vội vă trở về bản.
Trong bản bấy giờ đang có mấy người đau ốm đă từ nửa
năm nay mà thuốc thang không khỏi. Đạo kha ṿ lá pha
nước cho họ uống chẳng mấy chốc các con bệnh đều lành
mạnh như xưa. Không những vậy, Đạo Kha c̣n chữa lành
cho cả những người mù, què, câm, điếc và những người
vừa chết nữa.
Danh tiếng cải tử hoàn sinh, cải lăo hoàn đồng của Đạo
Kha lan khắp bốn phương.
Trên thượng giới, Trời cùng các vị thần bấy lâu đă
biết rơ việc này. Các vị thần e rồi cả loài người sẽ
sống măi măi chẳng kém ǵ thần tiên nên nhất quyết xin
Trời trừng trị gấp, kẻo loài người sẽ coi thượng giới
không ra ǵ nữa.
Trời bèn sai một vị thần xuống đất Mường, bắt cả những
người đă uống lá cây trường sinh bất tử đưa đến một
thế giới khác với cơi đời có sống có chết ở trần gian.
(Không thể bắt những người bất tử ấy chết được, mà để
họ ở trần gian th́ c̣n ǵ là luật tạo hóa nữa.)
C̣n Đạo Kha với cây trường sinh đă trót mọc ở đất
Mường, th́ một đêm trăng sáng dân Mường kinh hoàng
thấy vị thần sống của họ ôm gốc một thân cây kỳ lạ bay
tuột lên ở cung trăng.
Từ đó dân Mường trở lại với bệnh tật, già, chết, chỉ
c̣n biết ngắm bóng Đạo Kha ôm cây trường sinh đời đời
trên cung trăng.
PHỤ CHÚ
Truyện trên được ông Hoàng-Trọng-Miên (VNVHTT quyển 2,
Cổ tích) đặt tên là “Thằng Cuội Mường và Cây Trường
Sinh”. Xét ra đại cương tuy giống nhau mà tinh thần
cùng chi tiết có khác. Truyện “Thằng Cuội” của Việt
nam đơn giản, thiên về hài hước; truyện “Đạo Kha” của
Mường, trang nghiêm hơn, nhiều t́nh tiết hơn để giải
thích sự cách biệt cần thiết giữa thế giới của thần
tiên bất tử và thế giới của loài người với sinh, lăo,
bệnh, tử.
THẦN THOẠI THÁI
HỒNG THUỶ
Thuở đó các loài muôn thú bị người giết hại nhiều bèn
kiện với Trời. Trời thoạt làm hạn hán, cỏ cây nơi nơi
khô xác, muôn thú nơi nơi chết khát, kế tới sấm sét
nổi dậy. Trong ṿng một ngày, có trên một trăm ngàn
trận mưa đổ xuống, tất cả khe, suối, ao, hồ đều tràn
ngập, rồi nước dâng cao tới trời.
Sau đại hoạ ấy, Trời đưa xuống hai thủ lănh là Tao
Suông và Tao Ngân để tạo lập lại trên mặt đất. Hai
người dân nhà trời này đem theo tám quả bàu và tám cái
gậy bằng đồng gọi là Sao Cam Pha (gậy chống trời).
Trong ruột những quả bầu ấy có đủ mọi thứ cần dùng cho
đời sống, có 330 giống lúa để gieo, 330 giống người.
Trong các quả bầu cũng có đủ những sách dạy các phép
phù thuỷ, bói toán, tiên tri.
Thoạt xuống đến Mường Um và Mường Ai là nơi chính giữa
trời và đất, họ chỉ thấy một vùng nước mênh mông bao
phủ cả mặt đất. Đợi ba tháng nước mới bắt đầu rút, sáu
tháng mặt đất mới thật khô ráo. Tao Ngân đóng ở Mường
Um và Mường Ai; Tao Suông th́ xuống phía dưới thấp
hơn, tới đâu cắm gậy và dùng trái bầu để tạo lập thế
giới tại đó.
Tương truyền một hôm, Tao Ngân dùng mác bổ một miếng
trái bầu. Người Thái ở trong đó chui ra. Nhác bổ thứ
hai bằng ŕu th́ thấy người Lào và người Lư chui ra,
cao lớn hơn người Thái. Sợ quả bầu bị nát, Tao Ngân
mới nung lửa chiếc dùi và cẩn thận dùi. Người Khả chui
ra thấm phải than nên da đen hơn người Thái và Lào.
TRỜI THỬ MUÔN LOÀI
Ngày xưa không riêng ǵ con người mà cả loài chim
muông cùng cây cỏ đều biết nói. Một hôm Trời muốn thử
ḷng mỗi loài bèn vờ chết. Tất cả loài vật mới lên
trời vào dịp ấy, loài nào cũng nói rằng : “Ông Trời
chết rồi, chúng ta tha hồ sống theo ư ḿnh; ông Tổ
chết rồi, chúng ta tha hồ ăn ở theo ư ḿnh.”
Con rùa lên chậm v́ nó vốn đi lâu, lại gặp một cây lớn
ngă giữa đường, rùa mới nhờ người giúp nó vượt qua cây
đổ, và để đáp ơn lại, nó hứa sẽ dạy cách than khóc về
ông Trời chết. Khi tới trời, con rùa mới rền rỉ : “Ông
Trời chết rồi, tôi không có chốn ở. Ông Tổ chết rồi,
tôi không có ǵ để ăn!”.
Người cũng bắt chước y như lời than khóc đó của rùa.
Trời nghe lấy làm bằng ḷng lắm, ngồi nhỏm dậy phán
rằng :
- Loài vật các ngươi thấy ta chết đều tỏ vẻ vui mừng,
bày tỏ ḷng dạ xấu xa, từ đây ta không cho các ngươi
nói được nữa mà chỉ để cho con người nói được mà thôi.
Ta lại cho phép người được ăn thịt các ngươi.
Không một loài vật nào dám căi lại ư định của Trời trừ
cọp, rắn hổ mang và thuồng luồng. Con cọp nhảy vọt cao
để tỏ sức mạnh; rắn th́ phồng mang thở ph́ ph́. Con
người biết ḿnh sức yếu hơn mới dùng mẹo, dựng lên một
túp lều tranh rồi hỏi ba con vật :
- Cái ngươi có sợ cái ta vừa dựng lên không?
Cả ba cùng đáp :
- Sợ ǵ mà sợ. Cái đó chúng ta có thể dùng để ở, nằm
ngủ thích thú nữa.
Người bèn nói :
- Vậy th́ cả ba vào trong đó đi cho thích.
Cả ba con vật liền vào trong lều ở. Bên ngoài con
người mới dùng ḥn đá Trời cho, đốt lửa châm vào nhà
tranh. Con cọp nóng quá nhảy phóng qua đám lửa cháy,
v́ thế mà từ ngày đó bộ lông bị vạch đen dài rằn rện.
Hai con rắn và thuồng luồng tuy đă ḅ hết sức mau mà
thân h́nh cũng bị vết than in hằn lên.
Từ đấy mối thù hiềm giữa người và ba con vật càng
nặng. Người tránh gặp ba con vật kia, và mỗi khi gặp
thường nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng không v́ thế mà
người ta không ăn thịt ba giống đó.
PHỤ CHÚ :
Loại truyện giải thích nguyên do v́ sao có sự việc
này, v́ sao có sự việc nọ, ngày nay Tây phương mệnh
danh vào loại “why stories”. Câu truyện trên của thần
thoại Thái thật là loại “why stories” dí dỏm và hấp
dẫn có hạng trong kho tàng thần thoại thế giới.
CÂY SONG CHUỐC KHAO CÁT
Ngày xưa, trời đất vẫn liên lạc với nhau được bằng một
cây song lớn gọi là Chuốc Khao Cát.
Trên mặt đất có một người đàn bà góa, có một đứa con
trai thường hay đi lại nhiều lần lên nước trời. Một
hôm, người mẹ muốn đập lúa mà gọi con trai măi không
được v́ nó c̣n mải chơi trên trời. Bà mẹ tức giận, khi
đứa con đă xuống rồi, bèn lấy mác chặt đứt cây song
làm cho đường đi giữa trời và đất từ đấy bị gián đoạn
hẳn.
THẦN THOẠI MÁN
TẠO LẬP VŨ TRỤ
Thuở hỗn mang chưa có ǵ được tạo lập chỉ mới có hai
đấng cùng thành h́nh một lượt là Nhiêu Vương (tức Ngọc
Hoàng) và Bàn Cổ. Nhiêu Vương có ba trăm sáu con mắt;
Bàn Cổ có ba trăm sáu thân h́nh.
Con mắt bên trái của Nhiêu Vương sinh ra mặt trời
(dương), con mắt bên phải sinh ra mặt trăng (âm), đầu
làm thành trời, chân làm thành đất. C̣n loài người th́
do tâm của Bàn Cổ mà sinh ra, trong đó có Bàn Vũ. Bàn
Vũ đă giúp vua Trung Hoa dẹp giặc phương Nam bằng cách
hóa thành một con chó đi vào thành giặc, thừa lúc vua
giặc đang say rượu, nằm ngủ, nhảy lại cắn chết, rồi
chặt đầu mang về. Bàn Vũ được vua Trung Hoa trọng
thưởng, cắt đất và gả công chúa thứ ba cho như đă hứa.
Bàn Vũ và công chúa sinh ra được sáu trai và sáu gái
thành tổ tiên người Mán. Hai vợ chồng Bàn Vũ về ở núi
Cối Kê cai quản giang sơn, núi rừng của nhà vua đă cắt
cho. Đến ngày nay, người Mán vẫn nhớ ḿnh là con cháu
của Cẩu Long (chó rồng), kiêng ăn thịt vật tổ, quần áo
phụ nữ thêu dệt các h́nh ảnh nhắc nhở đến vật tổ, và
trong vài bộ lạc Mán, đàn ông c̣n giữ tục lệ mang tóc
kết như đuôi chó để nhớ đến nguồn gốc của bộ tộc.
HỒNG THỦY
Thuở trời đất mới dựng nên, có một vị thần tên Chang
Lô Cô xây một ngôi nhà lợp bằng lá chuối. Thần Lung
Cung (Thần Sét) bèn làm đổ ngôi nhà ấy và hóa thành
con gà trống để tỏ vẻ đắc thắng. Thần Chang Lô Cô thừa
cơ tóm được, nhốt gà trống vào một cái lồng h́nh
vuông, không cho uống nước. Thần Sét khát quá, đưa ra
một cái răng, xin đổi được một ít nước uống. Uống xong
th́ trở lại nguyên h́nh Thần Sét, phá tan lồng bay vụt
lên trời.
Thần Chang Lô Cô giận lắm, đem chiếc răng của Thần Sét
gieo xuống đất th́ mọc lên một nhánh bầu với một quả
bầu khổng lồ; rồi ngồi trên nóc căn nhà đă bị làm đổ ở
giữa ao, dùng phép ngăn sông, dâng nước lên tận trời
để theo đuổi kẻ thù, làm chết đắm cả loài người. Chỉ
có hai anh em Phu Hay được chim thần đến báo cho biết
trước tai nạn và khuyên hai anh em t́m đến quả bầu
khổng lồ ấy để tránh nạn. Khi nước dâng lên đến cửa
nhà trời, Chang Lô Cô đập mạnh cửa gọi Thần Sét. Thần
Sét bèn tháo nước cho trôi tuốt ra biển, thần Chang Lô
Cô bị rơi theo, đầu va vào ngọn núi Côn Lôn mà chết.
Trái bầu chở hai anh em Phu Hay thoát nạn cũng mắc
trên đỉnh núi đó. Hai người độc nhất c̣n sót lại trên
mặt đất dắt nhau đi t́m người cùng ṇi giống để kết
hôn.
Đầu tiên họ gặp một con rùa đen. Rùa bảo trên mặt đất
chỉ c̣n hai anh em mà thôi, rồi khuyên họ nên lấy
nhau. Cho là rùa nguyền rủa ḿnh, Phu Hay đập rùa vỡ
tan ra từng mảnh. Nhưng các mảnh vỡ của rùa nối liền
ngay lại với nhau và ngày nay c̣n mang dấu ở trên mai.
Sau đó, hai anh em lại ra đi, gặp một cây tre, tre
cũng khuyên họ như rùa. Phu Hay tức giận chặt tre ra
làm nhiều khúc, nhưng các khúc tre lại nối liền với
nhau, và từ đó có dấu vết từng khúc trên thân cây.
Cuối cùng Phu Hay cùng em gái phải lấy nhau, rồi đẻ ra
một quả bầu. Phu Hay cắt quả lấy hạt giao cho vợ đem
gieo. Mỗi hạt mọc lên, hóa thành một người.
Sau trận Hồng thủy, xuất hiện mười hai tinh cầu để làm
khô ráo mặt đất. Nhưng sau khi mặt đất khô ráo rồi,
mười hai tinh cầu vẫn chiếu nóng măi khiến cho cỏ cây
không mọc được, con người mới lấy cung bắn rụng dần,
chỉ c̣n để lại một mặt trời và một mặt trăng.
THẦN THOẠI KHẢ
HỒNG THỦY
Ngày xưa, có hai anh em đào đất bắt được con chuột
lớn. Nó van lạy xin tha chết và báo cho hai anh em
biết là trong sáu ngày nữa sẽ có một trận lụt lớn vô
cùng. Hỏi phải làm thế nào để thoát nạn nước lớn, nó
khuyên hai anh em nên chặt một thân cây, đẽo rỗng đi,
để dành thức ăn vào đó, rồi buộc vào cây vả rừng, rồi
hai anh em hăy vào náu trong đó, và nhớ lấy sáp ong
bịt lại cho kỹ.
Quả nhiên, sáu hôm sau xảy nạn lụt lớn, nước mênh mông
tràn ngập cả xứ. Hai anh em chui trong thân cây thoát
chết.
CHIM TO GO KHUYÊN HAI ANH EM LẤY NHAU
Khi nước rút hết, người xung quanh chết hết, chỉ c̣n
hai anh em sống sót. Người con trai mới bảo với em gái
:
- Từ rày chỉ c̣n chúng ta sống sót ở trên đất này. Anh
đi về phía này, em đi về phía kia. Anh sẽ lấy người
đàn bà đầu tiên làm vợ, em sẽ lấy người đàn ông đầu
tiên làm chồng.
Hai anh em chia tay đi khá lâu, rồi lại gặp nhau.
Người anh nói :
- Có lẽ chúng ta đi chưa xa nên không gặp được xứ mới.
Chúng ta hăy ra đi nữa, đi cho đến khi tới xứ có người
ở.
Nhiều ngày sau đó, hai anh em lại gặp nhau nữa. Họ
buồn bă chưa biết tính sao th́ có con chim to go bay
ngang bảo hai anh em đừng đi t́m kiếm vô ích, v́ trong
cả loài người chỉ c̣n có hai anh em sống sót mà thôi.
Chim khuyên hai anh em nên lấy nhau, nếu không th́ khi
một trong hai anh em chết đi, nhân loại sẽ bị tiêu
diệt.
Hai anh em đành nghe theo lời chim, ít lâu sau người
đàn bà có thai, và sau ba năm, sinh hạ ra hai quả bầu
lớn. Hai vợ chồng chẳng hiểu ra sao, bỏ mặc quả bầu
bên các cối giă gạo. Một hôm người vợ lỡ tay buông rơi
cái chày làm vỡ một quả bầu. Tự nhiên trong đó chui ra
những giống người Thái, Lư, Lào, Nhuôn.
C̣n trái bầu thứ hai, người đàn bà sợ làm vỡ bị thương
những người bên trong, mới cẩn thận dùng dùi nung lửa
từ từ chọc thủng. Người Khả ở trong liền chui ra với
làn da nám đen than cháy ở vỏ bầu, v́ thế mà người Khả
đen hơn tất cả các dân trong xứ.
Hai trái bầu nay đă hóa thành hai tảng đá c̣n vết tích
bị chày rơi nứt vỡ và vết dùi chọc qua. Bên cạnh vẫn
c̣n cây vả mà thủy tổ loài người nhờ cột thân cây rỗng
vào đó mà thoát chết sau nạn hồng thủy.
Ngày nay tại Bản Tô Bung cách Điện Biên Phủ 25 cây số
c̣n một ngôi chùa của người Lư cất lên thờ nhiều tượng
Phật ; trong số có một tượng to lớn đúc bằng sắt, đồng
và đất gọi là tượng ông Mồng, tên con chim đă khuyên
hai anh em tổ tiên loài người lấy nhau sau trận hồng
thủy. Chùa ấy ngày nay c̣n gọi là chùa ông Mồng.
|