|
TUYỂN TẬP VĂN CHƯƠNG NHI ĐỒNG
- 5a
QUYỂN NĂM
THẦN THOẠI
Nhật Bản
DOÃN QUỐC SỸ
Sưu tập

THẦN THOẠI NHẬT BẢN
NGUỒN GỐC
Những truyện thần thoại Nhật thường rất tản mạn, khó sắp
xếp thành hệ thống khít khao. Vào đầu thế kỷ thứ VIII xuất
hiện hai cuốn : Kojiki (Cổ Sự Ký) và Nihongi (Nhật Bản kỷ).
Hai cuốn này được coi như ghi lại những truyện đã có từ
trước thế kỷ thứ VIII. Kojiki (Cổ Sự Ký) ra đời vào năm
712; còn cuốn Nihongi (Nhật Bản kỷ), thì vào năm 720. Cả
hai đều viết bằng chữ Hán dùng cốt để ghi âm tiếng Nhật và
đều có chủ ý chứng tỏ rằng về mặt chính trị, văn hóa,
những bộ tộc tự xưng là Yamata (Đại Hoà Quốc cư trú trong
vùng Kyoto – Osaka hiện nay) hơn tất cả những bộ tộc ở nơi
khác (*). Sách ghi chép mô phỏng theo phương pháp của
Trung Quốc, rất nhiều sử liệu hay truyện tích cổ thời được
phân tích, lý giải theo tư tưởng học thuật Trung Quốc. Gạt
bỏ những thiên kiến của tác giả, hai cuốn sách này vẫn là
tài liệu lịch sử cổ Nhật Bản và là nguồn chính yếu của
thần thoại Nhật Bản.
(*) Hiện nay dân Nhật còn tự nhận là dân Đại-Hoà-Quốc.
KOJIKI
(Cổ Sự Ký) : còn gọi là Furu oto bumi ( Những liên hệ với
các sự kiện cổ) được viết vào cuối thế kỷ thứ VII nhưng
mãi đến năm 712 mới xuất bản. Đây là tác phẩm cổ nhất hiện
có tại Nhật. Công cuộc biên khảo được thực hiện dưới triều
vua Temmu (672 – 686) do sáng kiến của nhà vua vào năm
681. Nhà vua đã ban lệnh sưu tập tài liệu lịch sử các thời
trước, ghi chép lại cho khỏi thất lạc. Tương truyền có một
nhân vật nhớ việc rất tài trong đoàn Kataribe ( Đoàn xướng
vịnh) được nhà vua trao phó công việc kể lại cho viên quan
chép sử Ono Yasumaro (mất năm 723) ghi. Bài tựa phản ảnh
rõ những ý tưởng chịu ảnh hưởng học thuật Trung Quốc đương
thời, lấy lịch sử làm nền tảng luân lý soi sáng những hành
động thường nhật. Kojiki (Cổ Sự Ký) quả đúng là một tập
truyện cổ được lưu truyền hữu dụng cho đời.
NIHONGI
(Nhật Bản kỷ) : Cuốn này
được xuất bản tám năm sau. Cũng như Cổ Sử Ký Kojiki, cuốn
Nhật Bản Kỷ Nihongi này ghi chép lịch sử Nhật từ thời tiền
sử cho đến năm 700. (Riêng Cổ Sử Ký thì kết thúc vào năm
628.) Nhật Bản Kỷ mô phỏng theo lối chép sử Trung Quốc
nhiều hơn cuốn Cổ Sự Ký, từ quan niệm âm dương trong
truyền kỳ khai thiên lập địa cho đến lối biên niên theo
các triều vua Trung Quốc. Thêm nữa, mỗi đoạn trong Nhật
Bản Kỷ còn nhiều phần phụ đưa ra nhiều lối giải thích,
thêu hoa dệt gấm cho câu chuyện thêm linh động và có ghi
niên biểu rõ ràng cho đúng khuôn sáo của sử sách Trung Hoa.
Thậm chí tác giả đã táo bạo sửa đổi niên biểu các triều
vua đầu tiên, do đó chỉ có thể tin cậy vào niên biểu kể từ
đầu thế kỷ thứ sáu trở đi.
Ngoài hai cuốn trên còn một số tác phẩm khác nữa cũng góp
phần vào công cuộc tìm hiểu thần thoại Nhật, tuy không
được dồi dào cho lắm.
THỜI HỒNG HOANG
Khởi thuỷ là một khối bầy nhầy, mờ mịt như một trái trứng
khổng lồ chứa sẵn những mầm tự sinh. Rồi từ giữa khối hỗn
độn mờ mịt ấy nẩy sinh ra mồi chồi lau sậy linh thiêng.
Chồi lau sậy trở thành đấng thần thông biến hoá, các vị
thần phụ thuộc khác cũng lần lượt xuất hiện để rồi cùng
tan biến đi. Như thế trải bảy thế hệ thần kỳ, cứ từng đôi
anh trai, em gái xuất hiện rồi biến diệt. Đến thế hệ thứ
tám - thế hệ ngắn ngủi mong manh, nhưng lại cực kỳ quan
trọng, lần lượt nam thần anh Izanagi và nữ thần em Izanami
ra đời.
THIÊN ĐỊA KHAI TỊCH
Theo lệnh truyền của các vị thiên thần kỳ cựu, Izanagi và
Izanami cùng tiến qua chiếc cầu nổi nhà trời (ama nouki
hashi – thiên phù kiều) lấy cây ngọc mâu linh thiêng khuấy
động làn nước nhớt hỗn độn dưới cầu. Khi nước cô đọng dần
rồi đặc lại, họ rút cây linh mâu lên, những giọt nước như
chất tương muối rớt xuống mặt đại dương kết hợp thành hòn
đảo Onogoro (có nghĩa là hòn đảo tự nó đọng lại mà thành).
Những con chim hải âu bắt đầu bay lượn nhịp nhàng quanh
đảo. Izanagi và Izanami cùng đặt chân lên hòn đảo xinh đẹp
đó, lòng bâng khuâng tràn ngập một niềm vui khôn tả. Họ
nhớ lời các thiên thần kỳ cựu đã hứa, rồi đây sau khi họ
đã thành đôi, họ sẽ có những đứa con thật khôi ngô tuấn vĩ.
Izanami ngắm Izanagi, ngắm đôi mắt long lanh của chàng,
ngắm mái tóc dài của chàng, ngắm những cánh tay, những bắp
chân và cả thân hình lực lưỡng cuồn cuộn bắp thịt của
chàng. Trời, sao lại có một thân hình nam giới đẹp đến thế
!
Nàng nói trước : Chúng ta kết đôi với nhau thành vợ chồng,
chàng ưng chăng ?
Đôi bên nhìn nhau say đắm, cái nhìn thuở ban đầu, miệng
cùng mỉm cười âu yếm.
Họ thành vợ chồng và đợi sinh hạ được những đứa con khôi
ngô đĩnh ngộ như lời các vị thiên thần kỳ cựu đã hứa.
Nhưng không, đứa con đầu tiên của cặp vợ chồng này là một
quái vật, một đứa bé mang hình con đỉa lớn (điệt tử). Họ
bèn bỏ Bé Đỉa lên một chiếc thuyền bằng sậy thả theo dòng.
Cặp vợ chồng hy vọng ở đứa con kế tiếp, thì đứa con này
kinh khủng không kém, mang hình một con sứa khổng lồ bập
bềnh như một chiếc đảo bằng bọt biển.
Vô cùng thất vọng, Izanagi và Izanami tìm gặp các vị thiên
thần kỳ cựu, chất vấn vì sao mà họ không hề sinh hạ những
đứa con tuấn vĩ như các vị đã hứa.
Họ được các thiên thần kỳ cựu giải đáp:
“Chính đàn ông phải hỏi xin cưới đàn bà mới đúng với ý
trời. Izanami đã xin cưới trước. Đó, vì sao các ngươi đã
sinh ra những quái thai.”
Izanagi và Izanami cúi đầu nhận lỗi. Họ trở lại đảo. Lần
này Izanami tiến lên, e lệ cúi đầu chờ đợi. Izanagi sung
sướng và hãnh diện nhìn vẻ đẹp kiều diễm của Izanami.
Chàng cất tiếng hỏi trước:
“Nàng có muốn trở thành vợ ta chăng ?”
Nàng mỉm cười ưng thuận. Và lần này họ thành vợ chồng theo
đúng như ước nguyện của các thần linh. Và cặp vợ chồng
thiên thần trẻ măng này đã sinh hạ những đứa con đẹp làm
sao, khôi ngô, tuấn vĩ làm sao ! Đó là những hòn đảo Nhật
Bản. Vâng, đó là những hòn đảo Nhật Bản xinh đẹp tuyệt vời
với núi, với sông, với rừng thông cao vút, với hoa anh đào
đua nở, với người và vật sinh sôi nảy nở phồn thịnh trên
đó. Tất cả, vâng tất cả đều là hậu duệ của Izanagi và
Izanami.
PHỤ CHÚ: Soạn giả thuật truyện Izanagi và Izanami trên
theo bản văn thanh nhã trong Contes et Légendes du Japon
của Félicien Challaye. Cũng truyện này, trong Mithologies
des Steppes, des Forêts et des Iles của P. Grimal, sát với
nguyên bản hơn, như sau:
IZANAGI VÀ IZANAMI THÀNH LỨA ĐÔI
Izanagi và Izanami cùng đặt chân lên hòn đảo mới ấy. Đảo
này trở thành trụ trời trung ương (thiên ngự trụ) để xây
ngự điện.
Izanagi hỏi cô em gái : “Thân thể em được cấu tạo bằng
cách nào ?”
Cô em đáp : Mọi bộ phận trên người em đều tăng trưởng trừ
một chỗ.
Izanagi tiếp lời : “Thế ư ? Anh cũng thế, tất cả cơ thể
đều nảy nở duy có bộ phận nảy nở hơn hết. Chi bằng lấy chỗ
dư thừa của anh lấp vào nơi thiếu sót của em để sinh sản
ra nhiều vùng có phải là hay không.”
Cô em đáp : “Quả là chí lý vậy”.
Kế đó, theo lời đề nghị của một vị thiên thần chủ về Nam
tính cao cả, hai anh em quyết định đi quanh hòn đảo.
Izanami ca ngợi cái đẹp của thân hình Nam thần mà rằng :
“Trời, sao lại có một thân hình Nam giới đẹp đến thế !”
Nam thần Izanagi cũng tán tụng cái đẹp của thân hình nữ
giới của cô em gái, nhưng trách ngay nàng đã bồng bột phát
biểu trước :
“Anh là trai, và trai có quyền phải nói trước. Em là gái
mà nói trước như vậy e có điềm chẳng lành. Chúng ta nên đi
quanh đảo thêm một vòng nữa.”
Nói đoạn hai anh em mỗi người đi một ngả như trước. Lần
này khi gặp nhau Izanagi phát biểu trước, sau đó mới đến
lượt Izanami cho đúng nghi thức hợp cẩn. Và hai vị thần
giao hoan với nhau. Thoạt Nam thần, Nữ thần lúng túng
không biết giao hoan với nhau ra sao, sực ngắm đôi chim
tích linh trên cành rung cổ vẫy đuôi rồi sáp lại bên nhau,
hai thần bèn bắt chước mà làm nghĩa vụ vợ chồng. Do đó
sinh ra nhiều đảo mới cùng một số thần linh. Tương truyền
trong số thần linh con cái của hai thần có một thần tàn
phế ba tuổi không đứng nổi nên Izanagi và Izanami mới đặt
tên là Hiruko (Điệt tử : Bé Đỉa) bỏ trên chiếc thuyền bằng
sậy (lô châu) thả theo dòng sông.
Nữ thần Izanami coi Hoàng Tuyền quốc (địa phủ) sinh ra các
vị thần Sông, thần Biển, thần Núi, thần Lửa.
CÁI CHẾT CỦA NỮ THẦN
IZANAMI
Izanagi và Izanami đã sinh ra khoảng bốn ngàn thần linh và
những đảo Nhật Bản. Sau đó hai thần còn sinh thêm nhiều
thần linh khác nữa mà sau cùng là Thần Lửa.
Tương truyền khi sinh ra Thần Lửa, Amaterasu bị bỏng nặng
rồi từ trần sau một cơn sốt kinh khủng.
Izanagi buồn đau, thương nhớ đi vòng quanh chỗ nằm của vợ
mà than khóc. Nước mắt biến thành các thần của thế hệ sau.
Khóc lóc chán rồi bèn rút thanh trường kiếm chém đầu con
là Thần Lửa. Máu Thần Lửa trở thành các vị thần của thế hệ
thứ ba.
IZANAGI XUỐNG THĂM
ĐỊA PHỦ
Không chịu nổi cảnh cô đơn buồn bã, Izanagi quyết chí đi
thăm Địa Phủ để gặp lại mặt vợ.
Tại Izumo, có một nơi hẻo lánh, thông mọc um tùm với nhiều
phiến đá ngổn ngang. Dưới một phiến đá hình dáng kỳ quái
nọ có một cửa hang bí mật, bên trong tối om.
Izanagi biết đó là lối xuống Địa Phủ. Tay nắm chặt đốc
gươm, chàng chui vào cửa hang, càng vào sâu ánh sáng càng
yếu dần cho đến khi hoàn toàn tối hẳn. Gặp vị thần canh
Địa Phủ đầu tiên, Izanagi được dẫn tới lâu đài Izanami ở.
Chàng dừng bước trước cửa, lòng nấu nung muốn được gặp mặt
vợ ngay. Chợt một giọng nói êm như gió thoảng rót vào tai
chàng:
- Hỡi đức lang quân kính mến, thiếp được chàng hạ cố từ
trên dương gian xuống thăm thế này thật vạn hạnh, vạn
hạnh.
- Hiền thê, hiền thê quý mến, ta không phải chỉ đến thăm
nàng mà thôi, ta tới để mang hiền thê trở về dương thế.
Nơi đó chúng ta đã chung sống những ngày hạnh phúc bao
nhiêu, vả lại nhiệm vụ sinh sản của chúng ta còn dang dở.
Hãy trở lại, xin nàng hãy ở lại cùng ta.
- Than ôi, chàng đến quá muộn, không ai có thể trở lại
dương gian khi đã ăn thực phẩm âm phủ, mà thiếp thì đã
chót ăn thực phẩm âm phủ mất rồi.
- Nhưng hiền thê há chẳng cũng ao ước được xum họp lại
cùng ta như ta vẫn ao ước được xum họp lại cùng nàng ?
- Ao ước lắm chứ, thiếp ao ước được trở lại làm vợ chàng
biết chừng nào!
- Vậy thì hiền thê còn đợi gì mà không xin với những vị
thần ngự trị nơi âm phủ này hãy trả nàng về dương thế ?
- Vâng, xin tuân theo lời chàng. Nhưng trong khi chờ đợi,
chàng phải hứa là không được tìm cách gặp mặt thiếp. Lệ
luật nơi này tuyệt đối như vậy.
- Ta xin hứa với nàng như vậy. Nàng hãy vào xin phép gấp
đi, ta chờ, ta chờ !
Được nghe giọng nói thoảng êm của Izanami, lòng Izanagi
tràn ngập niềm vui tưởng đến phát khóc lên được…
Chàng đứng trước cửa lâu đài chờ, tin rằng thế nào người
vợ yêu quí của chàng cũng xin được phép trở về dương thế.
Chàng đợi. Chàng đợi. Giây phút đợi chờ dăng dăng dài
tưởng như ngày này qua ngày khác…
Kỷ niệm những ngày chung sống hạnh phúc xưa rộn rã trong
tâm trí. Chàng nhớ lại thuở khi giọt nước tự cây ngọc mâu
linh thiêng rớt xuống đọng lại thành hòn đảo, chàng và
nàng cùng đặt chân trên hòn đảo cô quạnh lần đầu. Ngày đó
chàng nhìn nàng, ôi, dáng yêu kiều sinh đẹp biết chừng nào
! Phải nhìn lại mặt nàng tức khắc dù chỉ trong giây phút !
Izanagi không cầm nổi lòng nữa, bèn bẻ một răng lược dương
ở phía bên trái, châm lửa soi đường. Âm phủ chợt bùng sáng
nhưng cảnh tượng hãi hùng biết chừng nào ! Khi ánh lửa vừa
bùng lên từ răng lược, vợ chàng, nàng Izanami, ngã lăn
xuống đất, cơ thể rữa nát, khuôn mặt xanh lợt, tóc rụng
từng tảng, đôi mắt trợn trừng, thất tinh lạc, ròi bọ lúc
nhúc. Xác chết của nàng thét lên :
- Quân khốn kiếp, hãy cuốn xéo ngay đi ! Mi đã lừa dối ta,
làm nhục ta !
Những tia chớp bao quanh lấy thân thể nàng; tám vị thần
sét xuất phát tự đầu, bụng, hai vú, hai tay, hai chân nàng
đâm bổ ra.
Izanagi hốt hoảng lùi vội lại, rồi chạy trốn ra khỏi địa
phủ. Lũ nữ quỷ ùa đuổi theo. Ngoái nhìn thấy lũ chúng bám
riết, chàng lột nón quăng lại phía sau. Chiếc nón biến
thành những chùm nho mọng; lũ quỉ đứng lại, nhặt lấy, chia
nhau ăn. Ăn xong chúng lại chạy đuổi theo. Izanagi gỡ
chiếc lược cài mái tóc tay mặt, quăng lại phía sau. Chiếc
lược biến thành cụm măng tre mơn mởn, lũ quỷ đua nhau bẻ
ăn. Izanami bèn tung thêm 1500 quân trợ lực. Tám vị thần
sét bám sát lấy Izanagi. May thay lúc đó Izanagi vừa nhận
thấy có ba trái đào lớn, liền lấy hết bình sinh dùng ba
trái đào này ném lui lũ quỷ, đoạn chàng lăn phiên đá lớn
lấp chặn lối đi về giữa dương gian và âm phủ.
Từ đó chàng và nàng trở thành hai kẻ tử thù. Nàng hăm
chàng là hàng ngày sẽ cho quân sát hại một ngàn sinh linh.
Chàng phải bảo tồn bằng cách mỗi ngày cho tăng gia sinh
sản lên một ngàn năm trăm sinh linh để duy trì lấy sự sống
trên dương gian.
NỮ THẦN MẶT TRỜI
AMATERASU VÀ NAM THẦN SUSANO-O
Sau khi tiếp xúc với cảnh địa phủ về, Izanagi tẩy uế cho
thanh khiết. Chàng xuống tắm ở một dòng sông nhỏ tại
Tsukushi (nay là Kyu-shu.) Quần áo và đồ trang sức chàng
để trên bờ biến hóa ra thành 12 vị thần linh. Để tránh
khúc thượng lưu nước chảy xiết và khúc hạ lưu nước chảy lờ
đờ, chàng di chuyển đến khúc trung lưu. Những dấu tích
chàng di chuyển dưới dòng sông cũng biến hóa thành 14 vị
thần khác nữa. Sau chót mắt trái chàng sinh ra Nữ-thần Mặt
Trời Amaterasu làm chói lọi cả bầu trời. Mắt phải chàng
sinh ra thần Tsuki yomi (Mặt Trăng, Nguyệt Dạ Thần). Mũi
chàng sinh ra nam thần Susano-o, Thần Bão.
Amaterasu sáng láng chói lọi nên được Izanagi ban cho một
vòng ngọc và cho cai quản Cánh Đồng Trên Trời Cao. Còn
Susano-o, Thần Bão, vừa hung hăng, vừa thảm đạm nên được
trao cho cánh đồng Biển Cả.
Thần Susano-o chẳng lúc nào nguôi lòng, luôn luôn gào la
vang rền. Tiếng than gào của chàng làm núi non tàn úa, làm
biển cả cạn vơi, các vị thần khác chẳng còn biết xử trí ra
sao. Izanagi triệu thần Susano-o đến hỏi vì sao than khóc
ầm ĩ, quấy rầy đến chư thần và sao lãng bổn phận được giao
phó ? Susano-o bộc trực nói thẳng vì quá nhớ mẹ (Izanami),
muốn tới địa phủ gặp mẹ mà chưa được nên không lúc nào
thấy an tâm, nguôi lòng.
Bực bội về thái độ xấc xược của đứa con rắn đầu cứng cổ,
Izanagi đuổi Susano-o ra khỏi đất nước. Susano-o quyết đi
thăm cô chị, nữ thần mặt trời Amaterasu. Chàng lên đường,
miệng không ngớt kêu la ầm ĩ. Nữ thần mặt trời Amaterasu
ngờ rằng chàng muốn giẫm chân lên công việc riêng của
nàng, do đó nàng chuẩn bị xuất vân nghênh địch. Nàng đeo
lên vai hai ống tên, một ống đựng một ngàn tên, một ống
đựng năm trăm tên, với lấy cây cung rồi vận nội công đứng
thủ thế, đất lún sâu ngập tới ngang đùi đúng như một dũng
sĩ. Susano-o vội giải thích với chị là chàng đến thăm với
thiện chí, tuyệt không có một tà ý gì.
Chàng đề nghị thề nguyền xích tâm minh ước. Nàng ưng lời,
nhận cây trường kiếm chàng trao bẻ ra làm ba, đoạn cho vào
miệng nhai; chàng nhận chuỗi ngọc nàng tặng và cũng làm
theo nàng. Những mảnh này đã biến hóa ra nhiều vị thần
linh khác.
CÁI NGẠO NGƯỢC CỦA
SUSANO-O
Susano-o ở với chị gái là nữ thần mặt trời Amaterasu trên
Cao Thiên Nguyên. Mặc dầu cô chị nhiều lần khuyên nhủ mà
tật la gào, ngang ngạnh của chàng đã chẳng chừa lại còn tệ
hơn nữa. Susano-o phá hủy cả những phân ranh đồng lúa mà
nữ thần đã thiết lập thành những hào dẫn nước. Tuy vậy cô
chị vẫn bỏ qua, cho rằng chàng lỡ chén say sưa nên mới xảy
ra cơ sự như thế.
Nhưng tới bữa kia chàng lột da con ngựa lang trắng vung
tay ném vào phòng, nơi nàng cùng các nữ thần phụ tá khác
đang dệt, làm những thoi cửi buột tung ra ngoài, văng vào
họ khiến họ đều bị trọng thương cả. Lần này thì quá lắm,
Amaterasu hết sức bất bình bèn lánh vào Thiên Nham Cung
(hang trời) lấp kín cửa vào, vì vậy dương gian chìm đắm
trong tăm tối không còn ngày đêm.
Nàng tuyên bố hễ chư thần còn chấp nhận cho Susano-o sống
chung, nàng sẽ ở lì trong Thiên Nham Cung không xuất hiện
nữa. Chư vị thần linh hết sức bối rối, cùng tập hợp trên
dòng Thiên Hà cạn khô, thoạt còn ít, sau đông dần, tới tám
triệu vị, bàn nhau kiếm cách nào hiệu nghiệm nhất khiến
Amaterasu rời khỏi Thiên Nham Cung.
Vị thần mưu cơ là Taka-mi-misubi nói :
“Thường thường nữ thần Amaterasu ló rạng mỗi khi nghe
tiếng gà gáy, vậy chúng ta nên buộc chạc, rồi cho những
con gà trống thật tốt giọng đậu lên đó thay phiên nhau
gáy.”
Việc đó được thực hiện ngay, nhưng vô hiệu quả. Amaterasu
vẫn bằn bặt trong cùng thẳm Hang Trời.
Thần mưu cơ Taka-mi-misubi lại tìm ra kế gợi trí tò mò của
nữ thần Mặt Trời. Thần sai một thần thợ rèn độc nhỡn làm
một tấm gương thật sáng, đặt trước Hang Trời. Trên tấm
gương thần có treo những chuỗi ngọc trắng hình cánh cung
và những đồ lễ tết bằng chỉ bạch, rồi tất cả hát lễ van
vái (norito.)
Tuy nhiên cuộc vận động của chư thần chỉ hiệu nghiệm khi
nữ thần Amano Uzume xuất hiện với một vũ khúc đặc biệt ngộ
nghĩnh (*). Amaterasu nghe tiếng chư thần cười vang, động
lòng hiếu kỳ mở hé cửa hang. Rồi cất tiếng hỏi lớn:
(*) Theo P. Grimal (sđd) thì đây là một màn vũ dâm loạn,
nữ thần Uzume dậm chân, nện gót thình thịch, uốn éo, kéo
núm nhũ hoa, rồi nhún nhảy thoát xiêm y, khiến chư thần
cất tiếng cười vang.
“Ta ngỡ vắng ta, tám triệu chư vị thần linh sẽ buồn bã
trong đêm tối dầy đặc, làm sao chư vị lại vui cười hả hê
như vậy được ?”
Nữ thần Uzume lanh trí trả lời ngay:
“Làm sao chúng tôi vui ư ? Xin thưa, vì bọn chúng tôi đã
kiếm được một vị nữ thần mới nhan sắc còn kiều diễm hơn
Người nữa.”
Nghe vậy Amaterasu càng động lòng hiếu kỳ, và lòng ghen
tức nữa, bèn mở rộng cửa bước ra, thoạt nhận thấy bóng
mình phản ánh rỡ ràng trong gương. Một vị thần tiến tới
cầm lấy tay Amaterasu, chư thần khác lập tức chăng dây
ngang phía sau, chặn lối vào động.
Kể từ lúc đó ánh sáng lại chan hoà khắp dương thế, ngày
đêm lại bắt đầu vận chuyển.
NỮ THẦN TSUKI-YOMI VÀ NỮ THẦN UKEMOCHI
Nữ thần mặt trời Amaterasu ủy cho Nữ thần Mặt Trăng
Tsuki-yomi sứ mạng xuống phụ tá nữ thần Nuôi Dưỡng
Ukemochi dưới trần. Hay tin đó nữ thần Ukemochi bèn cúi
xuống đất thổ ra cơm chín, hướng ra bể thả các giống cá,
ngước lên phía núi rừng phóng ra chim muông để làm đại
tiệc khoản đãi nữ thần Mặt Trăng.
Tsuki-yomi nổi giận cho là nữ thần Nuôi Dưỡng Ukemochi
khinh mạn mình, dám thổ ra cơm chín làm tiệc đãi mình, bèn
tuốt ngay gươm ra chém chết và trở về thuật lại mọi việc
cho nữ thần Mặt Trời nghe. Amaterasu giận lắm, hết lời
mắng mỏ Tsuki-yomi và không bao giờ còn gặp mặt Tsuki-yomi
nữa.
Mặt Trời, Mặt Trăng cách biệt ở hai đối cực từ đấy. Mặt
Trời chỉ xuất hiện ban ngày còn Mặt Trăng ban đêm.
Sau khi Ukemochi chết, Amaterasu lại sai một sứ giả nữa
xuống thì thấy xác nữ thần đã biến thành nhiều thứ : đầu
hóa thành con bò, con ngựa; trán hoá thành cây kê; lông
mày thành tằm; mắt thành lúa tắc; bụng thành lúa; bộ phận
sinh dục thành lúa mì và đỗ. Thần sứ giả thu lượm những
thứ đó về trình với nữ thần Mặt Trời. Nữ thần bèn lấy ngũ
cốc làm hạt giống, trao cho một vị thần linh đem gieo, rồi
ngậm con tằm mà rút tơ ra”. Từ đó bắt đầu có thuật nuôi
tằm lấy tơ dệt lụa.
PHỤ CHÚ : Trong Thế Giới Đại Bách Khoa Sự Điển, người Nhật
không định danh Amaterasu là Thái Dương Thần Nữ như người
Trung Hoa. Theo Cổ Sự Ký gọi là “Thiên Chiếu Đại Ngự
Thần”. Theo Nhật Bản Kỷ thì gọi là “Thiên Chiếu Đại Thần”.
Các sách khác cũng gọi theo như thế, hoặc đổi phần bổ ngữ
về tước hiệu ở dưới thành “Thiên Chiếu Tọa Hoàng Đại
Thần”, hoặc viết tắt là “Nhật Thần”. Nữ thần được tôn sùng
là tổ thần của dân tộc Nhật Bản, các giòng vua Nhật đều là
hậu duệ của vị nữ thần đó. Họ tôn xưng Amaterasu là “Đại
Hoà Triều Đình Tối Cao Thần”. (vị thần tối cao của các
triều vua giống Đại Hòa – Yamato), hay “Hoàng Thất Tổ
Thần”. Cho đến nay danh xưng Đại Hoà Quốc – nước của giòng
Yamato – vẫn còn được sử dụng trong sách báo và các từ
điển của Nhật. Nữ thần Amaterasu có uy quyền soi sáng trái
đất, bảo vệ lẽ sinh tồn nơi dương thế nên có những uy hiệu
: Cao chiếu, Quốc chiếu, Khoa Chiếu và Cao quang đại thần.
Bảng tên tại các thần xã hay thần cung – tức đền thờ – là
Thiên Chiếu Hoàng Đại Thần Cung.
SUSANO-O VÀ CON RẮN
TÁM ĐẦU
Vì tính tình quá ngạo ngược, Susano-o vẫn chứng nào tật ấy
luôn luôn làm mất lòng chị. Sau cùng nữ thần Amaterasu
cương quyết đuổi chàng ra khỏi thiên cung.
Susano-o đọa lạc xuống vùng Izumo(*). Thấy có đôi đũa trôi
ở cửa sông lớn, sông Hii, chàng cho rằng vùng đất hẳn có
người ở. Chàng men ngược dòng sông lên phía thượng lưu.
Chàng gặp một lão trượng, một lão bà và cô con gái đang
khóc lóc thảm thiết. Hỏi ra mới hay rằng vị lão trượng tên
là Asinazuci, con thần núi, lão bà tên là Tenazuci, cô con
gái là công chúa Kunisada. Sở dĩ cả ba khóc lóc thảm thiết
vì vùng này đang bị một con rắn thành tinh tám đầu tác yêu
tác quái. Bảy năm qua, nó đã ăn thịt bảy cô con gái của
hai vị. Năm nay, nó sắp ăn thịt nốt nàng công chúa thứ tám
này.
(*) Izumo: viết theo Hán tự là Xuất Vân, chỗ rời khỏi
Thiên Cung. Vùng đất này hiện nay còn mang tên đó, ở về
phía Tây nước Nhật đối diện với Cao Ly (trên Osaka một
chút)
Mãng xà tinh là một quái vật khủng khiếp nằm phủ kín tám
ngọn đồi và tám thung lũng, mắt như than hồng, lưng rêu
mốc thếch, tùng, bách mọc cả trên đó, bụng đỏ như máu,
khắp mình phun ra lửa.
Susano-o cho vị lão trượng hay chàng là em nữ thần
Amaterasu, chàng sẽ diệt mãng xà tinh và mong rằng vị lão
trượng sẽ gả cô gái cho chàng sau khi công việc xong xuôi.
Chàng bảo kiếm cho tám vò rượu sake hảo hạng, đặt trên tám
bệ xây, quây rào cọc lớn xung quanh, nhưng mở ngỏ tám cửa
vào. Mãng xà tinh tới ngửi thấy mùi rượu ngon bèn lách tám
đầu qua tám cửa uống xong say khướt ngủ lăn như chết. Lúc
đó Susano-o mới xuất hiện, rút thanh kiếm đâm sâu vào mạng
sườn phía trái con mãng xà tinh. Máu đỏ chảy ra xối xả, nó
rống lên một tiếng kinh hồn tảng đởm nhưng vẫn không ngóc
cao nổi đầu lên. Susano-o đâm nhát kiếm thứ hai bên mạng
sườn phải, máu nó khi đó đã chảy ra tới sông, nhuộm đỏ cả
dòng. Mãng xà gục đầu chết. Muốn cho chắc, Susano-o đâm
một nhát kiếm thứ ba vào khoảng chính giữa thân rắn, thanh
kiếm bị gãy làm đôi, cũng may mà nó thật chết rồi. Tò mò
muốn biết vật gì cứng đã làm gẫy kiếm, Susano-o bèn rạch
phăng khoảng đó như rạch một trái dưa bở, thì thấy bên
dưới là một thanh bảo kiếm. Chàng bèn gửi biếu thanh kiếm
đó lên nữ thần Amaterasu, gọi là kiếm Kuzabagi
(Thiên-Tùng-Vân kiếm).
Susano-o cho xây một cung điện tráng lệ ở Suga thuộc vùng
Izumo, rồi cưới nàng công chúa diễm lệ Kunisada làm vợ.
Nàng rất kính yêu chồng, người đã cứu nàng thoát chết khỏi
mãng xà tinh. Cung điện luôn luôn được tám lớp mây dày bao
phủ, không cho những cặp mắt tò mò nhòm ngó vào nơi ở hạnh
phúc của đôi lứa. Họ sinh hạ được nhiều linh thần khác,
người con xuất sắc nhất là Òkuninushi (*)
(*) Okuninushi : viết theo Hán tự là “Đại Quốc Chủ.” Những
huyền thoại về con cháu Susano-o không có điểm gì trái
nghịch với vùng Yamato (Đại Hoà), đây là giai đoạn chuyển
tiếp giữa hai thời đại.
CON THỎ INABA (*)
(*) Inaba nay là tỉnh Tottori ở phía Đông đảo Honshu, phía
Bắc giáp liền với biển Nhật Bản.
Òkininushi có nhiều anh. Những vị này đều khao khát lấy
công chúa Yakami xứ Inaba, một miền không xa Izumo cho
lắm. Òkuninushi phải đi theo phục dịch các anh như tên
quân hầu, vác một bao vật dụng rất nặng. Trên đường đi
Inaba, đám bào huynh của Òkuninushi thấy một con thỏ bị
tróc hết lông nằm dí trên mặt đất. Tâm địa hiểm độc, họ
xúi dại con thỏ xuống tắm ở vùng biển nước mặn rồi leo lên
sườn núi phơi mình hong nắng gió, đợi lông mọc như xưa.
Con thỏ ngây thơ nghe theo, da dẻ khô xác, nứt nẻ, nó quằn
quại rên la thảm thiết. Òkuninushi đến sau cùng thấy thỏ
như vậy, hỏi han mới rõ sự tình. Nguyên thủy truyện thỏ bị
trụi lông như sau:
Khi còn ở trên đảo Oki ngoài khơi, thỏ muốn vượt eo biển
trở lại đất liền mà không có phương tiện. Nó bèn nghĩ ra
một kế, tụ tập bầy cá sấu lại đề nghị một cuộc thi xem dân
số loài nào đông đảo hơn. Thỏ bảo cá sấu hãy nối đuôi nhau
trong eo biển để nó đếm đầu trước rồi sẽ đến lượt sấu điểm
giòng nhà thỏ. Đàn sấu y theo, con nọ ngậm đuôi con kia
nối dài tới đất liền.
Con thỏ bèn đi trên lưng chúng như đi trên một cây cầu
nổi, giả bộ đếm. Sắp bước lên đất liền rồi, con thỏ dại
dột nói lộ mưu chước cho con cá sấu cuối cùng nghe. Con
sấu này giận quá lấy răng gậm hết lông thỏ. Kế đó thỏ bị
các vị thần bào huynh của Òkuninushi xúi dại để chịu cực
hình như kia.
Òkuninushi động lòng trắc ẩn bảo thỏ hãy đến chỗ có nước
ngọt tắm rửa cho sạch sẽ rồi dùng phấn cỏ tranh thoa khắp
mình thì sẽ thấy dễ chịu và lông mọc lại được. Thỏ nghe
quả nhiên bình phục. Thỏ đó chính là vị thần thỏ xứ Inaba.
Để đền ơn Òkuninushi, thần thỏ đã giúp chàng lấy được công
chúa Yakami. Các thần anh căm giận vì việc hôn nhân bất
thành, lại bị phỗng tay trên, nên cùng bàn mưu trừ khử
thằng em tốt phúc đi. Khi cả bọn tới núi Tema cùng săn một
con lợn lòi, các thần anh bảo sẽ lùa con thú xuống chân
núi cho Òkuninushi bắt, rồi xúm nhau nung nóng một tảng đá
lớn trên núi đẩy xuống đánh lừa. Thần em tưởng là con thú,
ôm chầm lấy nên bị phỏng nặng chết. May bà mẹ ngự du trên
thiên đình biết chuyện liền sai thần Hến biển, thần Ngao
biển xuống cứu. Thần Hến biển biến vỏ mình thành bột phấn,
còn thần Ngao biển thì hút khô nước ở vết thương. Phút
chốc Đại Quốc Chủ (Òkuninushi) sống lại, trẻ đẹp khác
thường.
Các thần anh họp nhau bày cách khác cố sát hại kỳ được Đại
Quốc Chủ. Họ hạ một cổ thụ xẻ ngang một kẽ lớn; lừa đẩy
thần em vào giữa rồi xúm nhau ép lại khiến Òkuninushi bị
kẹp chết. Lần này cũng nhờ bà mẹ thần thông biến hoá biết
mà cứu kịp. Bà mẹ lúc ấy mới tỉnh ngộ về những âm mưu đen
tối của các con lớn, bèn khuyên Òkuninushi hãy trốn đi
thật xa. Òkuninushi cắm cổ chạy chối chết mới thoát được
những mũi tên của các thần anh bắn theo. Chàng luồn qua
chẽ ba của cành cây mà chạy biến đi.
NHỮNG TRUYỆN PHIÊU
LƯU KẾ TIẾP CỦA ÒKUNINUSHI
Òkuninushi đi xuống Hoàng Tuyền Quốc (địa phủ) để thỉnh ý
cha là Susano-o đương ở đó. Khi tới gần điện thì gặp công
chúa Gan Dạ, con Susano-o đi ra. Mới gặp nhau lần đầu mà
đôi mắt cùng liếc đôi lòng cùng ưa, họ lấy nhau luôn. Công
chúa vào báo cho cha hay là có một nam thần điển trai tới.
Vốn ngang bướng hung hăng, Susano-o bèn mệnh danh
Òkuninushi là “gã xấu xa của xứ lau sậy” rồi cho vào ngủ
đêm tại một lều nuôi rắn. Công chúa Gan Dạ phải đưa cho
chàng tấm áo lốt rắn mới thoát khỏi hiểm nghèo.
Đêm sau Susano-o lại bắt chàng ngủ ở căn lều có con rết và
con ong vò vẽ. Vợ chàng vội trao cho một tấm khăn choàng
đặc biệt để bảo vệ chàng khỏi bị ong và rết đốt chết.
Hôm sau Susano-o bắn một mũi tên vào cánh đồng cỏ ngút
ngàn rồi bắt chàng đi kiếm lại mũi tên đó. Chàng vừa đi
khuất vào cánh đồng, Susano-o bèn nổi lửa đốt cỏ. Đang cơn
nguy khốn đã tưởng mình lần này thật chết thì một con
chuột nhỏ xuất hiện chỉ cho cái hang lánh nạn, rồi còn
mang đến cho chàng mũi tên mà nó đã cất giấu không để lửa
đốt. Bực mình về sự thành công của Òkuninushi, Susano-o
dẫn chàng vào cung bắt chàng bắt chấy cho mình. Đại Quốc
Chủ phải nhai mấy trái cây muku mà vợ chàng đưa cho cùng
ít đất đỏ, rồi nhả ra quết đỏ tươi làm như đó là những xác
chấy đỏ mọng. Susano-o lấy làm thích thú mà ngủ thiếp đi.
Nhanh như cắt Òkuninushi cột tóc Susano-o lên sàn nhà, với
lấy kiếm, cung tên và cây đàn của ông bố tàn nhẫn, rồi
cõng công chúa Gan Dạ chạy trốn. Trong lúc vội vàng chạy,
chàng để dây đàn cọ vào cành cây bật thành tiếng khiến
Susano-o choàng tỉnh, đứng phắt lên đuổi theo, tóc lão lôi
sập cả cung điện. Đuổi tới ranh giới dương gian và âm phủ
thì lão dừng lại, lúc ấy lão đành miễn cưỡng bảo con (tức
Òkuninushi) đem cung tên về giết bọn ác thần, và cho chàng
lấy công chúa Gan Dạ.
ANH LÙN SUKUNA
BIKONA
Òkuninushi bắt đầu xây dựng một thế giới trên mặt đất. Có
một vị thần kỳ dị xuống phụ tá, đó là anh lùn Sukuna
Bikona lướt sóng trên con thuyền tí hon làm bằng vỏ cây có
lợp mái và trang trí bằng lông ngỗng. Òkuninushi nhón anh
lùn đặt lên mu bàn tay để ngắm cho rõ, bất thần bị anh lùn
nhảy lên má cắn chàng một cái thật đau. Thấy sự lạ lùng,
Đại Quốc Chủ kể lại câu chuyện này cho chư vị thiên thần
nghe, thì một trong số thiên thần nhận ra đó là con mình,
một đứa con tinh quái ngỗ nghịch đã lọt từ khe tay rớt
xuống đất.
Òkuninushi bắt đầu cùng anh lùn Sukuna Bikona xây dựng cho
nhân gian. Khởi thuỷ họ tìm ra cách chữa trị những bệnh
tật của con người, rồi dạy người phương pháp tránh cái họa
của chim muông cầm thú, loài bò sát bằng cách nuôi dạy
chúng phục vụ cho loài người. Khi mọi nhiệm vụ đã hoàn
tất, một bữa kia Sukuna Bikona leo lên bông kê, thân kê
rung động làm bắn vọt anh về trời.
PHÂN CHIA QUYỀN UY
Òkuninushi cai trị xứ Izumo cho đến ngày nữ thần Amaterasu
cho cháu đích tôn Ninigi xuống chiếm vùng bình nguyên lau
sậy trung ương mà tự xưng Hoàng Đế.
Òkuninushi bị buộc phải hiến đất xưng thần. Quyền hành
được chia xẻ như sau: Với Ninigi, khởi sự quyền uy thiêng
liêng ngự trị trên dương thế, còn Òkuninushi thì trông coi
việc cơ mật tức quyền tôn giáo. Để tiêu biểu cho quyền uy
của cháu nội, Amaterasu ban cho Ninigi ba báu vật : viên
ngọc quý hình cong, một chiếc gương báu và thanh
Thiên-tùng-vân kiếm (lấy ở Mãng Xà Tinh tám đầu).
Hiện nay ba báu vật này vẫn còn là biểu hiệu của ngôi báu
Nhật hoàng.
PHỤ CHÚ:
Sự phân chia quyền
lực thế quyền cho Ninigi ở Yamato và thần quyền cho
Òkuninushi ở Izumo chứng tỏ Nhật có ít nhất là hai trung
tâm văn hóa chính và thần thoại Nhật bắt nguồn tự hai nơi
này. Còn một trung tâm khác ở Tsukushi (Kyushu.)
Các nhà khảo cứu sau này tìm ra có tới 10 thuyết khác nhau
về vị Thiên hoàng thứ nhất Ninigi (âm Hán : Quỳnh Quỳnh Sử
Tôn.) Trong Cổ Sự Ký ghi : Ninigi, cháu đích tôn của nữ
thần Mặt Trời Amaterasu, tự Taka maha gara (Cao thiên
nguyên) giáng lâm, cai trị nước Mizuko (Thụy Tuệ) bình
định nước Ashi hara (Vi Nguyên : đồng lau sậy) trong khi
Òkuninushi đã cai trị nước Izumo (Xuất Vân). Do đó các học
giả cho rằng hai chữ “giáng lâm” có một ý nghĩa là từ nơi
xa tới xâm chiếm khu Yamato (Đại Hoà : Osaka-Kyoto).
Danh hiệu Ninigi có thể chỉ là biểu thị cái ý lúa đạo phát
triển dồi dào (đạo tuệ chi nhiêu nhiêu) nghĩa là vì canh
nông phát triển mà dân Nhật bắt đầu có hình thức sống định
cư. Thần lúa, cháu nữ Thần Mặt Trời, như vậy hao hao giống
truyện Thần Nông của Tàu mà Nhật đã vay mượn. Mô phỏng
theo Trung Quốc, nhà vua phải làm lễ gặt mùa thu. Nhật gọi
là Đại Thường Tế hay Thu Hoạch Lễ, rồi có thể do nghi lễ
mô phỏng đầu tiên về việc tế tự Thần Lúa đó mà người đương
thời đặt ra truyện Ninigi chăng ?
ÁNH LỬA VÀ BÓNG LỬA
Trong đám con của Ninigi có hai vị hoàng tử Ánh Lửa và
Bóng Lửa đặc biệt hơn cả : Ánh Lửa là anh cả sinh sống
bằng nghề chài lưới, bắt cá vây lớn, vây nhỏ; còn hoàng từ
Bóng Lửa thì sinh sống ở trên đất liền bắt loài lông cứng,
lông mềm.
Một bữa kia Bóng Lửa đề nghị đổi nghề với anh, nghĩa là kẻ
sinh sống ở đất liền thì ra gần biển làm nghề bắt cá, kẻ ở
gần biển thì vào đất liền làm nghề săn muông thú. Bóng Lửa
được anh đồng ý và trao cho một lưỡi câu báu, nhưng chẳng
những chàng chẳng bắt nổi con cá nào mà còn làm mất lưỡi
câu xuống đáy biển. Bóng Lửa xin bồi thường anh 500 lưỡi
câu thường, nhưng Ánh Lửa không chịu, nằng nặc đòi cho
được lưỡi câu báu. Bóng Lửa ra bờ sông khóc than, thì có
vị thần biển hiện ra hỏi vì sao mà khóc. Khi rõ nguyên do,
thần thương tình tạo thành một con thuyền cho Bóng Lửa
lướt sóng ra khơi, tới được cung điện của vị chúa tể biển
cả là vua Thuỷ Tề.
Cung điện xây toàn bằng vảy cá tuyệt đẹp. Bóng Lửa trèo
lên một cây gần cái giếng bên cạnh cung điện. Khi các nữ
thần hầu công chúa con của Thủy Tề Đại Vương ra lấy nước
thì thấy Bóng Lửa. Chàng mon men tới xin nước uống. Các nữ
thần lấy một bát nước đưa cho Bóng Lửa, chàng không uống,
móc lấy viên ngọc mang theo trong mình, đưa lên miệng rồi
nhả vào trong bát nước, viên ngọc dính chặt ở đáy bát
không tài nào dứt ra được. Đám nữ tì đành đưa bát về
trình. Cả phụ hoàng lẫn công chúa đều ngạc nhiên, cùng ra
xem. Gặp Bóng Lửa, cả hai nhận rằng đó là một vị thần
linh, long trọng đón tiếp, và ngay hôm đó cử hành hôn lễ
giữa Bóng Lửa với Công chúa. Ba năm trôi qua êm đềm nhưng
rồi càng về sau Bóng Lửa càng thấy nhớ nhà, suốt ngày thở
dài buồn bã. Công chúa gạn hỏi, chàng kể lại chuyện sở dĩ
ra khơi rồi hạnh ngộ gặp nàng cũng vì trót đánh mất lưỡi
câu báu của người anh, bị anh thúc bách phải kiếm cho bằng
được.
Vua Thủy Tề tra hỏi mọi giống cá dưới biển, phát giác ra
Cá Điêu đã nuốt lưỡi câu đó còn mắc ở cổ. Vua bèn lấy ra
trao cho Bóng Lửa, đoạn phán cho chàng trở về trả lại anh.
Trước khi ra đi, vua tặng chàng hai viên ngọc báu, dặn dò
cặn kẽ cách sử dụng.
Vua dặn :
“Khi nào ngươi trao trả lưỡi câu cho người anh thì nói :
đây là chiếc lưỡi câu đồ sộ, lưỡi câu tham lam, lưỡi câu
mang tai họa và lưỡi câu xuẩn ngốc. Sau đó nếu anh ngươi
khai thác miền cao thì ngươi khai thác ở miền thấp; cứ như
thế chỉ trong ba năm anh ngươi sẽ nghèo túng khổ sở. Sau
cùng nếu anh ngươi sinh sư,ỉ ngươi sẽ xử dụng hai viên
ngọc báu.”
Bóng Lửa cỡi cá sấu trở về chốn cũ.
Sau khi Ánh Lửa gặp em, lấy lại được lưỡi câu, thì mỗi
ngày một lụn bại, khốn đốn. Cuối cùng, chán nản, bực bội,
Ánh Lửa tìm cách sát hại đứa em. Bóng Lửa đem viên ngọc
quý thứ nhứt ra niệm chú theo lời dặn của Chúa Thần Biển
Cả, nước ào ào cuốn lên. Ánh lửa trốn lủi lên miền cao,
nước càng dâng mạnh (*). Đến lúc sắp sửa chết đuối, Ánh
Lửa mới than van hối hận. Bóng lửa thương hại, mang viên
ngọc thứ nhì ra niệm chú thì đột nhiên nước rút hết ra
biển. Ánh Lửa cảm động xin quy phục hoàn toàn người em,
không còn cạnh tranh ghen tị như trước nữa.
(*) Tình tiết này làm chúng ta liên tưởng đến truyện
Sơn-tinh và Thủy-tinh trong thần thoại Việt Nam nhà.
Ở cung điện ngoài khơi, công chúa con Thần Biển trở dạ.
Nàng nghĩ thầm thật là bất hạnh nếu để con một thiên thần
phải chào đời ở lòng biển, nên nàng vượt biển vào đất
liền, tức nước Đại Hoà của chồng. Nàng hoá phép làm thành
một tòa nhà trang trí bằng lông chim công cốc, ngay trên
bờ biển, làm nơi sinh. Nàng dặn Bóng Lửa khi nàng sinh thì
không được dòm ngó. Bóng Lửa không kiềm chế nổi tính tò
mò, đứng ngoài lén nhìn vào, thấy vợ mình lúc sinh hoá ra
một con cá sấu khổng lồ. Công chúa xấu hổ vì bị chồng biết
rõ nguyên hình, trốn biệt ra ngoài biển. Tuy rằng kể từ đó
hai người chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa nhưng cả hai vẫn
trọn đời nhớ tới nhau và tình yêu của họ thường được nhắc
nhở như một mối tình thiên thu.
TRUYỆN CHÀNG ĐÁNH CÁ
URASHIMA TARÔ
Giữa quần đảo Nhật Bản có một vùng biển nội địa, cảnh trí
đẹp như gấm như hoa, núi vàng, đất đỏ, rừng xanh. Quanh
vịnh sóng biếc thanh bình này có vô số những làng thuyền
chài, xa xa là những đảo nhỏ nhấp nhô với những cây tùng
cao vút, gió thổi rì rào.
Khoảng hai mươi lăm thế kỷ trước đây, tương truyền vào một
sáng hạ đẹp trời, chàng thuyền chài Urashima Tarô đẹp trai
và hiền lành, người tại vùng này, xuống thuyền buông câu.
Chàng buông câu đã lâu mà chẳng được con gì. Chợt dây câu
bị kéo nặng chĩu, chàng giật lên được một con rùa nhỏ.
Urashima cười thương hại nói :
“Tội nghiệp con rùa nhỏ, sở vật của Long Vương, mi có thể
sống lâu hàng ngàn tuổi mà sao lại dại dột cắn câu của ta
thế này. Thôi, ta thả mi trở về với Long Vương, nghe !”
Nói đoạn chàng gỡ con rùa ra khỏi lưỡi câu, thả xuống
biển, rồi chán câu, nằm khểnh trên thuyền nhìn trời xanh,
mây trắng, mặc cho sóng vỗ đu đưa, thiu thiu ngủ lúc nào
không biết. Chợt có bàn tay ai ve vuốt, chàng sực tỉnh, mở
mắt. Trước mặt chàng là một trang tuyệt sắc giai nhân, tóc
đen như mun, mềm óng, dài chấm gót chân; nàng mặc chiếc áo
màu đỏ rực và xanh da trời. Chính nàng vừa lướt sóng tới,
cất giọng êm như ru nói với chàng :
“ Xin chàng chớ ngạc nhiên, thiếp chính là con gái Long
Vương. Phụ vương thiếp cảm tấm lòng nhân hậu của chàng đã
tha chết con rùa nhỏ, nên cho phép chàng được gá nghĩa với
thiếp, nếu chàng ưng chúng ta sẽ chung sống ở miền bồng
lai tiên cảnh quanh năm bốn mùa xuân bất tận…”
Chàng ngắm nàng say đắm không thốt nên lời. Biết ý, nàng
lẳng lặng ngồi xuống đối diện với chàng, tay cầm một mái
chèo, chàng cũng cầm một mái chèo, cả hai cùng chèo… Con
thuyền lướt sóng phút chốc đã tới một hòn đảo kỳ thú, đất
trải đầy ngọc trai, cây cối trang hoàng toàn ngọc bích
long lanh. Nàng đưa chàng vào cung điện trình diện phụ
vương. Một trăm tên hầu trai, một trăm nàng hầu gái tấp
nập sửa soạn lễ cưới cho tân lang và tân giai nhân. Long
Vương ngồi trên ngai nạm kim cương chứng kiến hôn lễ. Nửa
đêm, yến tiệc linh đình vừa dứt, chàng và nàng động phòng
hoa chúc. Niềm hạnh phúc lứa đôi nếu cứ thế sẽ kéo dài bất
tận. Nhưng đôi khi lòng quê xúc động, Urashima đoán ở nhà
cha mẹ đương thương nhớ mình, tưởng lầm mình đã làm mồi
cho cá dưới đáy biển… Rồi chàng thở vắn than dài suốt
ngày. Chàng ngỏ lời xin người đẹp cho chàng về thăm quê cũ
đôi ba ngày, báo cho gia đình rõ sự tình, rồi trở lại
ngay. Vợ chàng lặng thinh không nói, khuôn mặt buồn rười
rượi, thỉnh thoảng thở dài não nuột. Chàng đoan quyết với
nàng là cuộc về thăm quê sẽ không lâu, chỉ vài ngày thôi.
Sau cùng nàng lên tiếng:
“Thiếp e rằng một khi chàng rời khỏi nơi đây chúng ta sẽ
chẳng bao giờ còn gặp mặt nhau nữa. Để thiếp tặng chàng
một món quà giúp chàng có thể trở lại đây, nếu chàng
muốn….”
Đoạn nàng trao tặng chàng một hộp lược nạm ngọc bên ngoài
có một dải lụa buộc, và ân cần dặn chàng dù có thế nào đi
nữa cũng chớ bao giờ mở hộp ra, nếu chàng còn muốn cùng
nàng tái ngộ.
Nàng nhìn chàng lau mắt lệ, chàng an ủi để nàng vững tâm :
“Xin nàng đừng nghi ngại điều gì, không bao giờ ta tháo
dải lụa mở hộp này. Khi đã thăm gia đình xong ta sẽ tức
khắc trở lại đây xum họp cùng nàng.”
Urashima trở về quê hương bằng chính chiếc thuyền cũ của
chàng. Thuyền cập bến dưới chân đồi quê hương. Neo thuyền
lại, chàng vội vã theo đường cũ dẫn về làng. Bốn bề vắng
lặng, văng vẳng tiếng thác đổ từ xa vọng lại, và gió trong
không gian từng đợt buồn bã thở dài. Nhà cửa đôi chỗ được
cất lại rộng lớn hơn hoặc mới hơn. Cả những thửa ruộng
cũng thay hình đổi dạng. Tới nơi nhà cũ của cha mẹ xưa,
chàng thấy đã biến thành một khu rừng thông nhỏ. Đôi người
qua lại kín đáo nhìn chàng tỏ vẻ lạ lùng. Một cụ già lưng
còng râu tóc bạc phơ, chống gậy đi qua. Urashima nghĩ rằng
không còn gì hơn là hỏi thăm vị lão trượng này. Chàng bèn
xưng tên họ và xin vị lão trượng, nếu có thể, chỉ giúp
hiện gia đình chàng đã thiên cư về nơi nào ?
Vị lão trượng nghe chàng xưng danh như vậy thì cười ngất :
“Chú điên rồi sao mà lại mạo xưng là Urashima Tarô ! Chú
há không biết, tương truyền cách đây bốn thế kỷ, chàng
Urashima Tarô đã mất tích trên miền biển lặng này vào một
dịp chàng đi câu? Sau đó người làng cũng không tìm thấy
xác chàng và thuyền của chàng đâu cả. Thật là kỳ dị. Hiện
nay tại khu nghĩa địa cũ, vẫn còn chiếc lăng nhỏ người ta
xây lên để tưởng nhớ chàng.”
Nói đoạn ông già chống gậy đi thẳng. Urashima Tarô theo
đường ra khu nghĩa địa cũ, quả nhiên thấy chiếc lăng nhỏ
xưa kia người ta đã xây cho chính chàng. Trên những tấm
bia rêu phủ và đã mòn mỏi nhiều với thời gian, chàng nhận
dần ra mộ cha, mẹ, anh, em, và cháu, chắt trong giòng họ.
Urashima cảm thấy cõi lòng bâng khuâng, buồn thảm. Đứng
tựa vào tấm bia mộ của chính mình, chàng cuối đầu suy
nghĩ. Tiếng gió chiều vi vu trong rặng thông nghe thê
thiết làm sao ! Tay chàng khi đó vẫn cầm hộp tặng vật của
công chúa con Long Vương, vợ chàng. Chàng nghĩ thầm :
“Biết đâu mở hộp ra mình lại chẳng tìm được lời giải đáp
nào giúp mình khỏi bỡ ngỡ trước hoàn cảnh bí ẩn này.”
Chàng thong thả cởi nút giải lụa và thận trọng mở nắp hộp.
Từ trong hộp bốc lên một làn khói trắng nhẹ, làn khói bay
miết về phương Nam, hướng biển.
Urashima chợt hiểu là mình đã dại dột làm ngược với lời
dặn của vợ và chắc là vĩnh viễn không bao giờ nữa chàng
còn hy vọng gặp lại nàng. Văng vẳng trong gió dường như có
tiếng nàng nhắn nhủ chàng đừng bao giờ lãng quên nàng.
Chàng dậm chân than khóc, hối tiếc mọi việc lỡ dở. Phút
chốc máu như lạnh trong huyết quản, chân tay khô héo đi,
mớ tóc thay màu bạc phơ như bông tuyết, da mặt nhăn nheo,
răng rụng, sức lực kiệt quệ, bốn thế kỷ chợt đè nặng lên
cơ thể, lên tâm trí, chàng ngã lăn xuống đất héo hon mà
chết (*).
(*) Đọc xong truyện này, tất nhiên chúng ta ai nấy đều
liên tưởng đến truyện “Lưu Thần Nguyễn Triệu” của Trung
Hoa và truyện “Từ Thức Nhập Thiên Thai” của Việt Nam nhà.
TỔNG KẾT VỀ THẦN
THOẠI NHẬT
Trước đây Trung Quốc coi Nhật là một thứ Đông di – dân mọi
rợ về phía Đông – văn hóa chẳng có gì đáng kể. Thái độ
Trung Quốc vốn kiêu ngạo, ngoài mình là “Trung hoa” ra,
còn bốn bề đều là man ri mọi rợ cả. Tuy nhiên về trường
hợp Nhật Bản, gần đây xem ý các học giả Nhật khi soạn cuốn
Thế Giới Đại Bách Khoa Sự Điển cũng đã cố ý lược bỏ những
đoạn tạp nhạp, bộc lộ cá tính quá thô lậu cổ thời.
Tỉ dụ Cổ Sự Ký ghi truyện vị đệ nhứt anh hùng hiệp sĩ được
cả dân Nhật tôn sùng nhắc nhở : Yamato dake (âm Hán : Nhật
Bản Vũ Tôn.) Đại lược như sau : “Yamato dake vốn tên là
Yamato takeru no mikoto. Chàng là con thứ Cảnh Hành Thiên
hoàng, người anh song sinh là Oousu nomikoto.
Một lần phụ vương sai chàng trừ khử người anh cả hỗn hào
lười biếng không hầu hạ cơm nước chu tất. Sớm tinh sương
đó chàng nấp sẵn ở nhà vệ sinh, chờ người anh tới đập
chết, chặt những mảnh tay chân gãy nát, bó trong một chiếc
chiếu, rồi quăng ra nơi xa. Một lần khác cũng được cha sai
trừ hai dũng sĩ khoác lác mà lại lỗ mãng tục tằn. Chàng
bèn giả trang làm thiếu nữ, mê hoặc cả hai, lơi lả mời
ruợu. Phục cho hai tên say mềm rồi rút kiếm đâm suốt qua
một tên, ấn mũi kiếm qua hông tên kia, rạch ngược lên
phanh thây tên thứ hai này chẳng khác một trái dưa chín
mõm vậy. Chàng không từ một thủ đoạn nào để diệt trừ địch
thủ. Chàng kết thân với một dũng sĩ xứ Izumo mà chàng chủ
tâm hạ sát. Chàng làm sẵn một cây kiếm gỗ, khi hai người
rủ nhau ra sông tắm, chàng đề nghị trao đổi kiếm với bạn
rồi sau đó lại thách thức đấu kiếm để nhân dịp hạ sát bạn
một cách dễ dàng và tàn nhẫn. Xong xuôi chàng đi sang phía
Đông, dọc đường gặp Công chúa Miyazu, đính ước với nàng,
rồi sau cưới nàng làm vợ.
Có lần trên đoạn đường đi biển có người tình nhân
Ototachibana cùng đi, sóng đánh dữ quá, thuyền chỉ chực
lật úp. Ototachibana đã khấn nguyện tự hiến thân cho thần
biển, lao mình xuống nước để cứu mạng cho chàng. Về sau
cuộc đời chàng kết thúc ở trên cánh đồng Tagi, tâm trí
chàng lúc đó còn thanh thản mà đôi chân thì kiệt lực xụm
xuống, chàng gục ngã mà chết.
Để tưởng niệm chàng, dân chúng đã xây một ngôi lăng đồ sộ
ở Ise, mọi người đến điếu tang khóc thương một đại dũng sĩ
anh hùng. Chàng đã hóa thành con chim Óc-Cau trắng mà biến
đi. Lăng chàng từ đó mang danh là “Lăng Óc Cau Trắng.”
Chúng ta thấy thành tích Yamato dake xảo quyệt, tầm thường
là vậy mà được tôn sùng là đệ nhất anh hùng dũng sĩ thì
quan niệm về anh hùng của nền văn hóa cổ thời Nhật Bản quả
thật là thô thiển. Cuốn Thế Giới Đại Bách Khoa Sự Điển đã
cố ý lược đi những hành vi ti tiểu của Yamato dake, mà chỉ
ghi vắn tắt đại ý : “…Vào năm Cảnh Hành thứ 28, chàng vâng
lệnh phụ hoàng đi chinh thảo xứ Kumaso (âm Hán: Thái tộc),
đã giả trang nữ giới, thắng lợi, sau được xưng là Yamato
dake (âm Hán : Nhật Bản Vũ Tôn). Năm Cảnh Hoàng thứ 40 thì
đánh Đông diệt Azamaebisu cũng đại thắng. Vào lễ thần
Yamato hime no mikoto thì được thần ban cho Thiên-tùng-vân
kiếm. Sau xuôi dòng sông Suruga, vượt biển Karasu đến nước
Ise ở phía Đông Bắc, rồi chết ở vùng Nomono, được mọi
người ngưỡng mộ xây lăng lớn mà sùng bái.”
(Văn hóa cổ thời Nhật bản thô lậu như vậy mà rồi nhờ có
những người lãnh đạo thời Minh Trị sáng suốt đã đưa nước
Nhật tiến vượt mức trong vòng một thế kỷ, điều này thực
đáng khiến cho chúng ta phải suy ngẫm).
Không kể những phần bạc tạp của thần thoại Nhật mà chúng
tôi đã lược bỏ, căn cứ vào những truyện đã tuyển chọn
trên, chúng ta có thể kết luận:
1. Sự khai thiên lập địa theo thần thoại Nhật Bản không
phải là hậu quả của một thế lực ngoại tại, Prima Causa, mà
là thể hiện theo cung cách tự sinh.
2. Nói chung thần thoại Nhật vừa có chỗ sống sượng vừa có
chỗ tế nhị, tinh khiết, mỹ lệ. Đôi khi đượm buồn nhưng
chẳng bao giờ thảm đạm, khuynh hướng chung là dung hòa,
tuyệt nhiên không đưa đến tai họa như thần thoại nhiều
nước khác, đặc biệt là thần thoại Hy Lạp.
SÁCH THAM KHẢO
Challaye, Félicien.
Contes et Légendes du Japon
Paris : Fernand Nathan, 1955.
Grimal, P. Mythologies des Steppes, des Forêts et des
Iles. Paris : Librairie Larousse, 1963.
Mythologie Asiatique Illustrée. Paris : Librairie de
France, 1928. |
|
|
|
|